Chương 1

icon
icon
icon

Callum
Chắc chắn không phải là tình yêu sét đánh.
Qua khóe mắt, tôi trông thấy một bàn chân trần nhem nhuốc. Tôi cố không nhìn, nhưng sự thật vẫn là sự thật, đi chân trần nơi công cộng là điều không thể chấp nhận và ngay lúc đó tôi chưa biết cái cơ thể có gắn hai bàn chân đó trông đẹp xấu ra làm sao. Tôi tin chắc là mình nhăn mặt, nhưng vẫn cố giữ mắt hướng vào màn hình máy tính đang ở chế độ làm việc. Rõ ràng tôi thất bại vì nàng đã bắt gặp ánh nhìn chòng chọc của tôi.
“Mắt tôi ở trên đây này,” giọng nàng có vẻ thích thú và tôi ngước nhìn lên để biết liệu mình có hiểu sai sắc thái giọng nói nàng không.
Thế là ánh mắt chúng tôi gặp nhau. Và đó là khi mũi tên thần Tình ái từ đâu phóng vút tới cắm phập vào tim tôi – nên có thể nói đó là tình yêu từ cái nhìn thứ hai.
Lilah rất tuyệt, theo cách không lời lẽ nào biểu đạt nổi. Nàng chỉ cao tròm trèm một mét rưỡi và gầy đến mức nếu bạn ôm nàng hơi chặt một chút là xương gãy hết luôn. Hôm đó, mái tóc màu đỏ hung được búi lên gọn ghẽ, không một sợi nào lơi ra và tôi chợt nhớ đến câu chuyện tiếu lâm rằng theo suy nghĩ của một số người để tóc lơ phơ là dấu hiệu cho thấy sự non kém. Không hiểu sao Lilah mặc complet màu mận chín phối cùng những phụ kiện bằng gỗ cứng và vuông vức mà vẫn giữ được vẻ chuyên nghiệp ngời ngời.
Có điều gì đó sai sai khi phần trên thì quá chải chuốt, trong khi hai bàn chân lại nhếch nhác đến vậy. Dù ngượng chín cả mặt khi bị bắt tại trận đang nhìn chằm chằm vào chân người khác, tôi cũng kịp mở mồm hỏi bừa.
“Sao cô không đi giày?”
“Nghe này, anh bạn. Hôm nay tôi đứng suốt tám tiếng đồng hồ. Trên giày gót nhọn đấy,” nàng bảo. Nàng đưa mắt nhìn những phụ nữ xung quanh có ý hỏi chị em có tin được anh chàng này không?
“Thế cũng chẳng có lý gì bây giờ lại để chân trần. Nếu đi loại giày phù hợp cô vẫn giữ chân sạch mà.”
“Ồ, thế đó là giải pháp cơ đấy.” Giọng điệu chế giễu được giảm nhẹ nhờ một tiếng cười. “Ngày mai khi vào tòa án mà bị thẩm phán hỏi tại sao lại đi giày thể thao, tôi sẽ đáp là tại một anh chàng trên phà bảo tôi làm vậy.”
“Một trong rất nhiều điều khiến tôi không thể hiểu phụ nữ là họ ép mình vào những nguyên tắc mà chỉ có phụ nữ quan tâm đến.” Tôi đã tranh luận với gần như mọi người phụ nữ tôi biết về chuyện này. Và bao giờ cũng dẫn đến một kết cục thảm họa.
“Những nguyên tắc chỉ phụ nữ mới quan tâm đến?! Có lần tôi bị sa thải vì không chịu trang điểm khi đi làm,” người phụ nữ bên cạnh Lilah xen vào. Gần như trước khi bà ta kịp nói hết câu, Lilah đã đưa cho bà ta một tấm danh thiếp.
“Bà nên gọi đến công ty tôi. Chúng tôi có thể hỗ trợ bà về việc đó,” nàng đưa chuyện, rồi quay sang tôi ngay. “Anh đang nghiêm túc khi gợi ý với tôi rằng lý do phụ nữ ăn vận chuyên nghiệp ở nơi làm việc là để gây ấn tượng với phụ nữ khác à?”
“Tôi ủng hộ tính chuyên nghiệp. Cô có thể thấy tôi đang mặc complet và tôi ngày nào cũng mặc như thế tại nơi làm việc. Nhưng nếu có ai đó gợi ý trực tiếp hay gián tiếp rằng tôi phải đeo bộ kẹp nhũ hoa để tiến thân, thì xin miễn. Nếu giày của cô làm đau chân, thì hãy đi loại ít cầu kỳ hơn ấy. Đơn giản thôi.”
Tại thời điểm đó, có thể muộn màng, tôi nhận ra có đến mười cặp mắt phụ nữ giận dữ chĩa vào tôi. Tôi quay đầu để dõi mắt về phía Manly Wharf ở đằng xa.
“Định đánh trống lảng đấy hả?” Lilah hỏi.
“Tôi biết mình không thắng nổi. Đàn ông không được phép thách thức phụ nữ.”
“Anh bạn, nếu anh định thách thức phụ nữ,” người đàn ông bên cạnh thì thầm, “thì đừng có làm điều đó trên phà ngoài biển với một nữ luật sư vừa đứng suốt tám tiếng trên giày cao gót.”
“Sáng suốt,” Lilah tán thành.
“Tôi đâu có định tranh cãi,” tôi nói, dù rõ ràng là thế. “Tôi thực sự không hiểu tại sao phụ nữ phải chịu đau để xinh đẹp. Cô là một phụ nữ đẹp, thưa cô…”
“Không phải việc của anh.”
“Cô Không Phải Việc Của Anh,” tôi lặp lại. “Nếu hôm nay cô đi giày đế bệt, thì cô vẫn sẽ đẹp và chuyên nghiệp như đi giày cao gót.”
“Cảm ơn về những lời nhắc nhở tử tế, nếu không muốn nói là đầy kẻ cả, của anh.”
Câu nói đó hẳn đã khép lại cuộc tranh luận, nhưng tôi không đời nào chịu rời phà khi chưa tìm hiểu nàng là ai. Tôi đã đợi rất lâu để thấy lòng mình rung động như với cô luật sư bí ẩn đó, cho dù nàng có đôi chân trần bẩn.
“Thế cô làm trong lĩnh vực luật nào?” “Đoán xem.”
“Ồ.” Tôi đã học vài môn luật hồi đại học, nhưng cứ như thể đã mấy thế kỷ trôi qua chứ không phải thập kỷ. “Doanh nghiệp?”

“Không.”
“Đất đai?”
“Không.”
Tôi lại nhìn nàng. Cách ăn mặc của nàng có gì đó cho thấy nàng không phù hợp với lĩnh vực luật doanh nghiệp lắm.
“À. Chắc là luật gia đình.”
“Không!” Nàng lại bật cười. Giọng cười của nàng trong trẻo và du dương – chính xác là âm thanh bạn nghĩ một phụ nữ xinh đẹp như Lilah sẽ phát ra khi cười lớn.
“Lao động?” “Lại sai.” “Hình sự rồi.” “Không hề.”
“Còn lĩnh vực nào khác nữa nhỉ?” “Quan trọng và năng động nhất.” “Luật bản quyền chăng?”
Nàng nhìn tôi ngờ vực.
“Anh làm trong ngành công nghiệp giải trí à?” Giờ đến lượt tôi phá lên cười.
“Tiếp thị.”
“Còn tệ hơn. Tôi hiểu rồi. Với đầu óc tư bản như vậy hèn gì anh thậm chí không chừa một ý nghĩ dành cho hành tinh nâng đỡ anh. Điển hình.”
Giờ thì rõ rồi.
“Cô là luật sư môi trường, cứu rỗi thế giới.” “Chính xác.”
“Xin lỗi vì sự chậm hiểu. Tôi nghĩ luật sư môi trường thường mặc áo thun làm từ sợi gai dầu và để tóc cuốn lọn dài, nhưng cô đi chân trần thế kia lẽ ra tôi nên biết ngay từ đầu rồi mới phải.”
“Tôi không thể không thắc mắc…” Nàng nói, nhưng dừng ngang như thể muốn nghĩ thêm điều mình định nói. Với Lilah, có thể đây là một mánh khóe để kiểm tra mức độ quan tâm của tôi, hơn là do dự thực sự.
“Sao hả?” Tôi giục. Kỳ thực là tôi chờ được nghe nàng nói, bất kỳ điều gì.
“Ồ, không có gì.” Nàng nhoẻn miệng cười và phải nói là tim tôi hơi lạc nhịp một chút. “Đang thắc mắc anh sẽ xoay chuyển tình hình như thế nào để mời tôi đi ăn tối đây.”
“Tôi thì đang tự hỏi liệu anh ta có định khiến cô về nhà thay đôi giày phù hợp vào trước không đã,” người phụ nữ bên cạnh Lilah cười phá lên.
“Tôi thì tự hỏi không biết liệu anh có mời tất cả chúng tôi để hỗ trợ không – tôi nghĩ anh có thể bị đánh lừa,” người đàn ông bên cạnh tôi nói rất khẽ. Có tiếng cười khúc khích đâu đó quanh chúng tôi, nhưng Lilah và tôi vẫn nhìn đăm đăm vào nhau, như thể tiếng cười đó được thêm vào trong một vở hài kịch tình huống.

“Tối nay được không?” Tôi hỏi.
“Tôi không hẹn hò với trai tiếp thị.” Giọng điệu của nàng bỡn cợt và tôi biết nàng đồng ý.
“Tôi có một khu vườn nhìn ra từ cửa sổ nhà bếp.” Hoàn toàn bịa đặt, đương nhiên – tôi còn chẳng có cửa sổ nhà bếp nữa cơ, vì tôi đã phá nát nhà bếp trong một cuộc cải tổ mà tôi chưa từng tính đến chuyện hoàn thành nó. Chẳng sao cả - câu nói mời mọc của tôi khiến những người xung quanh càng cười to hơn, còn Lilah toét miệng cười với tôi.
“Ồ, nếu vậy thì…”

Chúng tôi cùng nhau bước ra khỏi phà, khi đám đông bắt đầu hòa vào ráng chiều nhập nhoạng của Manly. Lilah đeo một chiếc túi xách ngoại cỡ trên vai và tôi có thể thấy trong đó có một chiếc laptop, còn tôi cũng đã bỏ ra nhiều giờ hoàn thành công việc đã định trước buổi sáng. Tôi không tin vào định mệnh – và đến giờ vẫn không – nhưng chẳng hiểu sao tôi lại để ý đến thời khắc này, như thể tôi vừa mới bắt đầu chuyến hành trình chỉ-một-lần-duy-nhất-trong-đời.
“Vậy, anh là một thiên tài tiếp thị xấu xa phải không?” Nàng gợi chuyện. Chúng tôi đợi để băng qua đường đến Manly Corso và giao thông lúc này dù đã qua giờ cao điểm vẫn còn đông đúc.
“Đại để. Tôi đã bỏ ra cả ngày nay để tìm cách dụ trẻ con mua thuốc độc.”
“Hãy pha nó với đường.”
“Chúng tôi đã làm thế suốt nhiều năm nay rồi ấy chứ. Kỹ thuật mới của tôi là pha nó với đường và cocaine – tôi luôn nghĩ cách mới để giữ cho bọn trẻ luôn nghiện.”
Câu nói đùa vô duyên của tôi rơi tõm vào khoảng không.
Nàng cười nửa miệng vẻ thương hại. “Sao lại là tiếp thị?”
“Sao lại là thứ gì khác?” Tôi nhún vai. “Tôi thích sự thách thức của việc thay đổi ý kiến của người khác.”
Đèn chuyển sang màu vàng và dòng xe lưu thông trên đường chậm lại, rồi ngừng hẳn. Chúng tôi tự động bị đẩy về phía trước cùng với đám đông di chuyển đến Corso, bởi vì dường như đó là điều dân Manly vẫn thường làm. Corso có một dãy những cửa hiệu và nhà hàng và đầu kia của con đường mở ra trên cát theo nghĩa đen. Bất kể ngày đêm, từ đông chí hè, luôn có một suối người tuôn chảy dọc theo Corso, bị lôi kéo bởi sức hút của bãi biển.
“Cô cho đôi giày tra tấn của mình vào túi xách hay đâu đó rồi?” Tôi hỏi. Tôi trù trừ không dám đá động đến đôi chân trần của nàng lần nữa, nhưng không thể hình dung bất kỳ nhà hàng nào đồng ý tiếp đón một khách hàng đi chân trần, cho dù chúng tôi chỉ cách biển vài trăm mét.
“Không, chúng yên vị dưới bàn làm việc của tôi rồi, nghỉ ngơi chuẩn bị cho đợt tra tấn ngày mai. Để tôi chỉ cho anh chỗ yêu thích của tôi nhé?” Nàng gợi ý. Rồi như đọc được ý nghĩ của tôi, nàng nói. “Ở Manly có những chỗ người ta không câu nệ tôi là dân hippy nhếch nhác.”
“Cô suốt ngày đi loanh quanh với chân trần chỉ để biết điều đó sao?” Tôi hỏi.
“Cuộc sống quá ngắn ngủi để ta phải chịu đựng những điều nhỏ nhặt một cách không cần thiết. Nếu chân đau, thì tôi cởi giày. Nếu búi tóc làm tôi khó chịu, thì tôi thả tóc ra. Nhắc mới nhớ.”
Lilah bước sát vào cửa hàng bên phải nàng và chuyển cho tôi cái túi xách ngoại cỡ và tôi lẳng lặng đón lấy. Có cảm giác như nàng có ma thuật đến mức bất kỳ chuyển động nào nơi nàng đều sẽ khiến tôi giật mình kinh ngạc và thần kinh tôi lúc nào cũng để ở chế độ cảnh giác cao độ. Tôi quan sát khi nàng tháo mấy cái kẹp khỏi búi tóc và xõa tóc xuống hai vai. Tóc nàng bật ra theo chuyển động của hai bàn tay và xổ xuống đến thắt lưng. Búi tóc chặt khiến tóc nàng gợn sóng. Nàng lắc đầu cho tóc thẳng ra và mỉm cười với tôi. “Tốt hơn rồi.”
Tôi ước thời gian có thể ngưng đọng ngay tại thời điểm đó để lấy điện thoại ra làm một bức ảnh. Đêm buông xuống và ánh sáng nhân tạo của cửa hiệu chúng tôi đứng cạnh làm suối tóc của nàng sáng bừng lên. Đôi mắt màu thiên thanh long lanh như đại dương ngoài kia vào một ngày chan hòa ánh nắng và nụ cười thoảng nhẹ trên môi nàng. Tôi làm nàng vui.
“Sẵn sàng chưa?” Nàng giục. Có phải tôi đã nhìn chằm chặp không? Tôi cũng không chắc nữa. Toàn bộ cuộc gặp gỡ này đang bắt đầu có cảm giác kỳ dị. Một ý nghĩ lướt qua tâm trí. Tôi đã từng phải lòng ai chưa nhỉ? Phải chăng nó là như thế này?
“Đi nào,” tôi nói. Tôi ý thức một cách đau đớn về tiếng mạch đập to đến mức nghe thấy được. Khi tôi quay đi để tiếp tục chuyến đi bộ về phía biển, nàng lại bật cười khanh khách.
“Túi xách của tôi hợp với anh thật đấy. Anh có nghĩ lúc nào đó chúng ta nên hoán đổi tên cho nhau không?”
Tôi đưa lại cái túi cho nàng và hy vọng nàng không để ý cổ tôi đang đỏ rần lên.
“Tôi là Callum. Callum Roberts.”
“Chào Callum-người-để-những-kẻ-chân-trần-vớ–mình- trên-phà,” nàng cười toe. “Tôi là Lilah Owens.”
“Tôi vớ cô ấy chứ,” tôi cãi.
“Được rồi, là anh. Sao cũng được, miễn là anh cảm thấy thoải mái.”
Lilah. Cái tên có vẻ rất hợp với nàng. Tôi thầm nhẩm – Lilah Roberts – rồi gạt đi, khiếp sợ. Tôi không muốn kết hôn, không bao giờ; chuyện này không phải là trò đùa.
Bố mẹ đã dạy tôi nhiều điều về tình yêu và hôn nhân
– bài học quan trọng nhất là những thứ đó không dành cho tôi.
“Chúng ta đi đâu đây?” Tôi hỏi, để dứt mình ra khỏi dòng suy tưởng không mong đợi. Tôi có một thôi thúc đột ngột muốn lãnh lấy trách nhiệm này. Tôi đã đến mọi chỗ đáng dùng bữa ở Manly và tôi cố tìm ra chỗ nào phù hợp. Nó cần bình dân vì tình trạng đôi chân, nhưng phải lãng mạn – đèn mờ chẳng hạn? Một danh sách các loại rượu vang hảo hạng? Chút nhạc êm dịu? “Turners?”
“Eo ơi,” nàng nhăn mặt, rõ ràng không ấn tượng với gợi ý của tôi về nhà hàng sành rượu danh tiếng bậc nhất ở ngoại ô. “Không, chúng ta sẽ đến Giovanni Bên Bờ biển.”
“Chỗ bán pizza ấy hả?” Tôi hoang mang. Chúng tôi băng qua đường và sánh đôi nhau dọc theo Corso, về phía con đường có cửa hàng Giovanni Bên Bờ biển. Đấy là một chỗ bán pizza bình dân, với lối trang trí lỗi thời, một thực đơn giá rẻ và lèo tèo vài ba cái bàn – hầu như chuyên bán thức ăn mang về.
“Không đủ trí thức dành cho anh à?” Nàng trêu tôi – hoặc có khi thử tôi.
“Rất được đấy chứ.” Chỗ đó cũng gần căn hộ của tôi, còn gì bằng. “Tôi không nghĩ cô thích ăn pizza.” Chủ yếu là bởi nàng trông như chưa từng nhồm nhoàm đồ ăn nhanh đầy miệng trong đời.
“Chẳng phải ai cũng thích pizza cả sao?” “Ừ, chắc vậy. Thế hôm nay cô làm vụ gì?”
“À, hôm nay tôi đến tòa án, cố thắng được một lệnh cấm mở hầm mỏ mới.”
“Thế tại sao cái mỏ ấy lại tồi tệ?”
“Hầu hết các mỏ đều tồi tệ.” Giọng điệu ấy nếu được dùng bởi bất kỳ ai khác chắc đã mang vẻ ngạo mạn. Ở Lilah lại có vẻ tự tin.
“Khu mỏ họ dự định khai thác nằm không xa một công viên quốc gia. Cách đó chỉ vài cây số là nơi sinh sống của ba loài sinh vật nằm trong sách đỏ. Rất nguy hiểm.”
“Cô thắng chứ?” “Chắc chắn.”
May mà tôi không làm quan tòa, bằng không thì chẳng bao giờ có thể tập trung vào chi tiết được nếu có nàng tranh luận trước mặt.
“Thế cô làm gì vào thời gian rảnh, Thuyền trưởng Hành tinh xanh?”
“Nấu nướng chút đỉnh. Nhưng đa phần là đan lát.” Tôi chả biết nàng đùa hay thật.
“Áo len chui cổ?”
“Hầu hết là giày. Cho những em bé tôi định có.” Rõ ràng là đùa rồi.
“Tôi cược là cô có một phòng cho trẻ con chứa đầy đủ mọi thứ.”
“Hai cơ, nhỡ đâu sinh đôi.”
“Cô định cứ làm chệch hướng mọi câu hỏi của tôi như thế hay sao?”

“Anh định cứ hỏi những câu ngu ngốc dành cho buổi hẹn đầu tiên như thế suốt đêm hay sao?”
“Nếu bị mắc kẹt trên một hoang đảo, thì cô sẽ mang theo ba thứ gì?”
“Một GPS, một điện thoại vệ tinh và laptop.”
Tôi có thể ngửi thấy mùi biển và phảng phất mùi pizza nương theo làn gió thoảng. Giovanni Bên Bờ biển ở ngay đằng trước, nhưng đột nhiên tôi do dự. Khi Lilah chuẩn bị bước vào trong, tôi nắm nhẹ khuỷu tay nàng và xoay nàng lại. Nàng nhướng mày.
“Tôi không chắc mình nên đưa cô đến tiệm pizza bình dân nhỏ xíu này trong cuộc hẹn đầu của chúng ta.”
“Sao lại thế?”
“Tôi nghĩ cô xứng đáng hơn.”
“Ồ, anh tử tế quá nhỉ?” Những cái gai bớt nhọn đi một chút và Lilah trao tôi nụ cười thật sự đầu tiên trong tối nay. “Nhưng hãy tin tôi, Callum, tôi khá là sành ăn đấy và ở đây có một món tôi rất mê.”
Làn gió nhẹ khẽ thổi tới làm lay động suối tóc Lilah và một lọn tóc lòa xòa trước một bên mắt nàng. Tôi với tay vén nó sau vành tai Lilah và thấy nàng nuốt khan. Ngay lập tức một phản ứng hóa học lạ lùng xảy ra giữa chúng tôi với một cường độ mạnh – bức bối đến mức khó chịu, nhưng không hiểu sao cũng lại trong sáng và thuần khiết dù bên trong ẩn
chứa dục vọng. Tôi muốn hôn Lilah và tôi biết nàng cũng muốn tôi làm vậy. Lần đầu tiên trong đời mình, tôi muốn tận hưởng mọi khoảnh khắc và kéo dài mọi giây phút của cuộc hành trình này.
“Nghe như sẽ có một bữa ăn tối không thể bỏ lỡ ấy nhỉ.” Nụ cười toe lại xuất hiện và khoảnh khắc đó chấm dứt.
Lilah lùi lại và bước vào trong.

Nhà hàng trống một nửa nhưng thực đơn thì đầy ắp. Tôi đã đến đây rồi nhưng chưa tìm thấy bất kỳ món đặc biệt nào đáng để đọc hết cái menu dài lê thê đó. Dù vậy Lilah biết chính xác mình muốn gì.
“Cho loại đế mỏng chay.” “Chay?”
“Có nghĩa là không thịt, không trứng, không sữa. Không sản phẩm từ động vật nào cả,” anh bồi nhanh nhảu đáp thay. Tôi thực sự hoang mang.
“Pizza sao có thể thế được?”
“Phô mai điều cực ngon đấy,” Lilah cho tôi biết. “Phô mai điều?” Tôi cau mày. “Có thứ ấy à?”
“Tôi nghĩ chúng ta nên dùng chung cái pizza chay lớn nhé,” Lilah nói, lấy thực đơn từ tay tôi.
“Nhưng tôi định gọi pizza thịt.” Lizza nhìn tôi thách thức.
“Đương nhiên tôi chẳng phải là người ăn chay trường gì đâu. Nhưng nếu anh thậm chí chưa từng nghe nói đến phô mai điều, thì chẳng lẽ anh không nghĩ mình ít nhất cũng nên thử nó xem sao sao?”
Nếu nàng gợi ý chúng tôi dùng chung một đĩa đất và, với hàng mi chớp chớp kia, tôi chắc sẽ yêu cầu rắc thêm một ít sỏi bên trên không chừng.
“Tôi có thể tạt qua quán chuyên phục vụ món rán hoặc nướng trên đường về nhà,” tôi nói nhỏ.
“Hóa ra anh không nề hà chuyện tán tỉnh một người lạ nơi công cộng nhưng lại sợ một món ăn không hề có động vật chết trong đó.”
“Nhiều động vật chết. Tôi là người làm tốt hơn mong đợi cơ mà.”
“Anh sống ở đây à?”
“Căn hộ của tôi cách đây vài dãy nhà.”
Trong những trường hợp khác, tôi chắc hẳn đã bỏ lỡ cách chân mày nàng nhướng lên hoặc vành môi nàng khẽ cong một cách tinh tế. Nàng đang nghĩ về việc về nhà với tôi. Ánh mắt chúng tôi lại giao nhau một lúc trước khi nàng chỉnh lại dáng ngồi và hất chỗ tóc lòa xòa che mặt.
“Tôi yêu Manly,” nàng nói. “Tôi yêu mùi của biển về đêm, sự thích thú trên khuôn mặt của những khách du lịch bụi khi họ bước xuống xe bus và nhất là, CBD thực tế đang ở một vũ trụ khác.”
“Tôi thực sự có một chuyện tình không lành mạnh với Sydney,” tôi thừa nhận. “Tôi sống ở CBD cho đến năm ngoái. Nguồn năng lượng đó tiếp sức cho tôi.” Hơn thế nữa; nó còn khơi dậy sự sáng tạo nơi tôi, bằng cách nào đó tôi cảm thấy chính thành phố đã truyền cảm hứng cho mình làm việc chăm chỉ như tôi đã làm trong suốt những năm qua. Thành phố và cái cảm giác rằng sự nghiệp thực sự là toàn bộ giá trị cuộc sống của tôi, nên tôi cần phải thành công.
“Thế tại sao anh lại chuyển đi?”
“Tôi bắt đầu nghi ngờ rằng mình không thể ở chế độ ON suốt được,” tôi nói. “Sự bận rộn liên miên bào mòn tôi khiến tôi kiệt quệ. Tôi không muốn chuyển đi quá xa và ý tưởng chạy bộ trên bãi biển trước khi về làm việc rồi bắt một con phà uể oải băng qua cảng thật hấp dẫn.”
“Thế anh chạy bộ trên bãi biển trước khi đi làm à?” “Không thường xuyên như tôi đã nghĩ.”
“Và anh bắt chuyến phà nhanh?”
“Nếu cô có đủ khả năng mua nhà ở Manly, cô không có thời gian để bắt chuyến phà chậm,” tôi thở dài.
“Điều đó rất đáng buồn, nhưng tôi nghĩ là đúng.”
Tôi chưa bao giờ hiểu cảm giác khi bị ai đó lôi cuốn đến mức không thể dời mắt khỏi người đó là như thế nào. Tôi chắc chắn mình không phải là một người biết lắng nghe – tôi lúc nào cũng chỉ quan tâm đến bản thân, một sự thật tôi tin chắc là nhiều tình cũ của tôi sẽ chứng thực. Nhưng với Lilah, tôi không muốn bỏ lỡ một lời nói nào.
“Tôi thừa kế nhà bà ngoại khi bà qua đời,” Lilah nói khẽ. “Ban đầu tôi học luật thương mại, kiếm kha khá tiền và nghĩ mình có thể cải tạo lại khu vườn rộng mênh mông mà ông bà ngoại đã trồng trọt chăm bón lúc sinh thời. Khu vườn ăn trái rộng vài mẫu sát biển ở Gosford, nơi đẹp nhất tôi từng ở - nhưng tôi đã tàn phá nó chỉ trong vài tháng.” Nàng cười vang. “Tôi chẳng biết mình làm cái quái quỷ gì nữa, nhưng cái ý tưởng đó quả thật là rất… viển vông.”
“Thực tế trái ngược với mong đợi hả?” Tôi ước đoán. “Chính xác. Hiện đôi vợ chồng già nhà đối diện đang
coi sóc vườn cây ăn trái và trồng thêm rau củ. Nhờ việc chăm
bón đúng cách, họ có đồ để mang bán ngoài chợ nông sản vào những ngày cuối tuần. Và tôi thỉnh thoảng đến thưởng thức trái cây và rau quả ở đấy. Cách duy nhất ước mơ thành hiện thực là để mọi việc diễn ra tự nhiên chứ đừng đặt quá nhiều kì vọng.”
“Tôi nghĩ thực ra đó cũng là những gì tôi làm khi chuyển đến Manly.” Tôi kinh ngạc với bản thân về sự sâu sắc trong nhận thức ngay cả khi tôi nói những lời đó. “Là thế đấy. Cho dù đó không phải là cuộc sống nhàn tản như tôi đã hình dung, nhưng cũng ổn.”
“Anh lớn lên ở thành phố à?” Lilah hỏi. “Cronulla. Còn cô?”

“Ồ, chúng tôi sống ở khắp nơi.”
“Hiện giờ gia đình cô có ở Sydney không?”
“Mẹ tôi đang sống ở Gosford. Cha tôi mất được một thời gian rồi.”
“Tôi xin lỗi,” tôi ngập ngừng. “Cha mẹ tôi cũng qua đời cả rồi.”
“Tôi có một học thuyết là cho dù cha mẹ bạn mất khi bạn chín mươi tuổi đi nữa thì điều đó cũng sẽ khiến bạn có cảm giác như mình là một đứa trẻ bơ vơ lần nữa.”
“Tôi nghĩ cô đúng.” Tôi ghét – vẫn ghét – nói về cái chết của đấng sinh thành, nhất là với phụ nữ và đặc biệt là người tôi có cảm tình. Đó chỉ như là một câu chuyện về điều kỳ diệu và tình yêu và trên mặt họ luôn xuất hiện vẻ khao khát đáng thương. Ngay lúc tôi tới phần kết của câu chuyện phiền muộn, hoặc là tôi cảm thấy như thể mình vừa làm họ đau buồn ghê gớm hoặc là họ đã bỏ lỡ điều quan trọng và chỉ thấy nó toàn là lãng mạn, khiến tôi thậm chí còn khó chịu hơn.
“Hai bác mất lâu chưa?” Lilah hỏi.
“Đó chỉ là một phần nhỏ của một câu chuyện dài.” Tôi không định thuyết phục nàng, không hẳn. Đây không phải là kiểu giọng tôi muốn dùng trong bữa ăn. Trước khi tôi kịp tìm cách chuyển chủ đề, Lilah chống một khuỷu tay lên bàn và tựa cằm trên mu bàn tay, tủm tỉm cười.
“Tôi không vội gì cả.”

Có thể tôi đã nói về cha mẹ mình ba lần với những phụ nữ tôi gặp và có thể cả ba lần đó tôi đều kết thúc cuộc nói chuyện với tâm trạng khó chịu. Có một lần cũng lâu lắm rồi, tôi có mời một phụ nữ gặp ở phòng tập thể hình đi ăn và không biết thế nào câu chuyện lại lạc sang cha mẹ tôi và tôi kể tuốt ra và thế là cô ta khóc thật. Tôi ăn vội ăn vàng cho xong bữa rồi về nhà một mình. Tôi nhớ mình đã kiềm chế để không gắt um lên với cô ta, cốt chỉ ra một điều hiển nhiên – chẳng câu chuyện nào kết thúc có hậu cả.
Tôi ngờ là Lilah có phản ứng khác đối với câu chuyện – tôi không chắc tại sao, có thể trực giác mách bảo vậy. Tôi bắt đầu nói về nó thậm chí trước cả khi kịp quyết định.
“Mẹ tôi là người Mỹ. Bà gặp cha tôi ở New York. Ông khi ấy hai mốt tuổi và mới bước vào nghề ký giả được vài năm. Ông đang tận hưởng một kỳ nghỉ dài ngày để đi đây đi đó và không hiểu sao lại đến thành phố ấy. Họ tình cờ gặp nhau trong một siêu thị, hình như là dãy rau củ đóng hộp thì phải và từ giây phút đó không thể tách rời. Mẹ tôi thường kể lại rằng, theo nghĩa đen họ không một giây phút nào rời nhau cho đến khi cha quay trở lại công việc vài tháng sau đó. Bà đi theo ông và họ cưới nhau vài tuần sau đó, rồi gây dựng nhà cửa và sống hạnh phúc bên nhau.”
“Một câu chuyện cổ tích.” Lilah không có vẻ gì là bị ấn tượng. “Thế mụ phù thủy độc ác đâu? Chuyện cổ tích nào cũng có mụ phù thủy độc ác mà.”
Tôi ngoác miệng cười.
“Một dân hippy và một người theo thuyết duy thực.
Tôi thích.”
“Tôi muốn lạc quan và tin vào tính thiện của con người, nhưng thực tế là, anh biết đấy, không chuyện nọ cũng chuyện kia xảy ra. Thế nào cũng có chuyện tồi tệ. Li hôn? Ngoại tình?”
“Ồ không, quả thực là họ sống bên nhau hạnh phúc suốt bốn mươi năm. Tôi ra đời, rồi đến hai em trai sinh đôi, nhiều chó mèo nuôi đến rồi đi, họ mua và trả xong nhà, thường xuyên có những kỳ nghỉ tuyệt vời và thành công trong sự nghiệp cho đến khi về hưu đúng tuổi. Tệ nhất là, tôi chưa từng chứng kiến họ nói một lời nào thiếu tôn trọng với nhau. Đó là một gia đình êm ấm đến khó tin, tôi thực sự chỉ có một phòng ngủ cho đến khi rời nhà để đi học đại học.”
“Một tuổi thơ êm ả đáng sợ nhỉ.” Lilah nhướng mày nhìn tôi. “Anh đáng thương thật đấy.”
“Chưa đâu. Như cô nói, không chuyện nọ thì cũng chuyện kia mà.” Tôi luôn cảm giác như có tiếng sấm rền giữa trời quang mỗi khi nhớ lại mất mát đó. Tôi cố khiến nó nhẹ nhàng. “Mẹ tôi thình lình qua đời vì một cơn đột quỵ khi bà sáu mươi. Đang khỏe như vâm thế mà chỉ một phút sau không còn thở nữa. Một tuần sau, cha cũng đi theo. Họ bảo ông bị nhồi máu cơ tim.”
“Nhưng anh biết là không phải thế.” Tôi bất ngờ.

“Phải, tôi biết là không phải. Không có gì đáng ngờ về cái chết của cha, chỉ là ông ngừng sống thôi. Họ đã sống một đời quấn quýt bên nhau – khi mẹ đi, cha không còn lại gì. Khỉ thật, tôi cũng bất ngờ là sao cha có thể trụ được cả một tuần. Đó là vấn đề của tình yêu kiểu cổ tích và có phù thủy độc ác của cô rồi đấy. Tình yêu đích thực đồng nghĩa với việc quá phụ thuộc vào nhau.”
“Tôi thậm chí còn chả tin vào tình yêu đích thực – khái niệm đó quả thực rất vớ vẩn. Còn câu chuyện của anh không hề tồi tệ - nó đẹp đấy chứ. Họ đã có với nhau bốn mươi năm hạnh phúc và một cuộc đời trọn vẹn bên nhau. Mẹ của anh ra đi nhanh và cha anh trong tiềm thức cũng chọn đi theo. Tôi tin chắc là mất hai người cùng một lúc như vậy quả là rất khủng khiếp, nhưng suy cho cùng, cũng như việc anh chuyển đến Manly, là thế đấy. Vả lại, anh và hai em trai anh là kết tinh tình yêu của hai người, nên hiểu theo nghĩa nào đó, sự kết hợp của họ vẫn còn tiếp diễn.”
Đó là lần đầu tiên tôi nếm mùi của cách nói thẳng thừng từ Lilah và trong một lúc tôi không chắc ý nàng là gì. Tôi ngả người ra ghế và ngắm nhìn những nét tương phản xinh đẹp – ánh mắt thông cảm, cánh môi cương nghị. Tôi đột nhiên nhận thấy Lilah đang lắng nghe tôi – thực sự lắng nghe, như thể tôi là một chủ đề đòi hỏi sự tập trung cao độ. Việc nàng nói qua loa về nỗi đau của tôi, tôi thấy cũng hơi tự ái một chút, nhưng cảm giác đó bị lấn át bởi sự kinh ngạc vì nàng tập trung mọi sự chú ý vào câu chuyện của tôi.
Tôi đã dùng sự lãng mạn để tiếp thị sản phẩm cả trăm lần, cung cấp cho công chúng phương châm rằng bạn có thể gặp ai đó, họ hiểu bạn và bạn hiểu họ và cùng nhau thế giới sẽ là một nơi dễ dàng hơn cho cả hai người. Chúng tôi thường khoác lên nó bộ cánh sex trong chiến dịch quảng cáo, nhưng suy cho cùng, mọi người ai cũng muốn tìm kiếm sự kết nối và đó là lý do tại sao sex lại hiệu quả ngang bằng một chiến thuật bán hàng.
Từ lúc trưởng thành tôi đã rất hiểu khái niệm này và giờ khi đã bốn mươi tuổi, ngồi trong cửa hàng pizza nhếch nhác, lần đầu tiên tôi cảm thấy muốn điều đó. Có những người tình, ngay cả bạn gái, đã đi qua đời tôi mà không thực sự hiểu tôi là người như thế nào và khi họ rời đi, tôi bị bỏ lại như cũ. Cho dù Lilah có lao ra khỏi nhà hàng trong lúc chúng tôi đang dở bữa pizza, tôi vẫn có cảm giác lần này không phải thế.
“Tôi vừa mới tiết lộ với cô về gia đình mình còn nhiều hơn vài người bạn thân thiết của tôi. Và cô vừa mới tàn nhẫn với tôi hơn bất kỳ ai trong số họ, cho dù đến mười năm nữa tôi vẫn thích đắm mình trong chính chủ đề đó.”
“Anh cần có những người bạn tốt hơn,” Lilah bảo và cả hai cùng phá lên cười.
Pizza đến. Người phục vụ nhẹ nhàng đặt nó lên bàn giữa chúng tôi và Lilah hít hà mùi thơm của bánh.
“Hãy xem xét những điều kỳ diệu của phương pháp chế biến đồ ăn giúp duy trì sự bền vững của môi trường đi, anh bạn.”

Trông nó tựa như pizza thông thường, ngoại trừ nơi đáng lẽ ra là thịt thì lại là những lát bí đỏ và olive. Tôi thở dài nhón một lát lớn nhất và không hiểu sao nó nhẹ hẫng trong tay tôi.
“Lần tới tôi mà vớ được một kẻ lạ mặt chân bẩn trên phà, tôi sẽ đưa cô ta về nhà rửa chân và tìm giày phù hợp cho cô ta rồi sau đó đi tới nơi nào đó ăn uống đàng hoàng.”
“Đúng là mỗi lần tôi vớ được một người lạ trên phà và mang anh ta đến đây, anh ta phàn nàn khi tôi bảo anh ta ăn pizza chay.” Nàng lấy một lát pizza cho lên đĩa của mình và cười toe với tôi. “Bon appétit!”
“Sao lại là chay?” Tôi hỏi Lilah sau khi cắn vài miếng. Loại pizza này ngon đến khó tin, nhưng lại không đủ chất. Tôi biết mình sẽ đói meo trong vài giờ nữa.
“Phô mai điều không thuyết phục được anh à?” Nàng vờ sửng sốt. “Đó là một phát hiện tuyệt vời khi lần đầu tiên tôi thử nó đấy.”
“Một phát hiện đủ để từ bỏ khá nhiều món ăn ngon mà con người biết đến sao?”
“Cách đây ít năm tôi có ở Trung Quốc một thời gian ngắn. Tôi đi du lịch cùng một người bạn và một trong những người bạn học thời đại học của cậu ấy đang làm việc trong lĩnh vực y tế tại một ngôi làng hẻo lánh. Những người già ở đấy vẫn còn khỏe mạnh một cách khó tin, nhưng cháu của
họ đều béo phì và mắc đủ thứ bệnh. Tất cả đều do chế độ ăn uống, bổ sung quá nhiều thịt và bơ sữa. Vậy nên thậm chí khi y tế tiến bộ hơn, người trẻ lại gặp nhiều vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe, trong khi người già vẫn sống tốt.”
“Nhiêu đó đủ để khiến cô từ bỏ tất cả?”
“Không thậm chí một chút nào.” Lilah cười toe toét. “Tôi tiếp tục đến châu Âu, rồi lưu lại nhiều tháng ở Trung Mỹ trước khi trở về và tận tâm với một lối sống dựa trên thực vật. Nhưng, đúng là tôi hoàn toàn kiêng thức ăn từ động vật kể từ đó. Khí thải carbon của tôi bét ra cũng ít hơn anh chín tấn một năm đấy.”
“Và đó là một điều tốt, đúng không?” Lilah đảo mắt.
“Đó là một điều tốt.”
“Cô bắt đầu việc đó từ khi vào đại học à? Hay một năm trước khi vào đại học?”
“Ồ không, chỉ mới vài năm trước thôi,” Lilah nói khi lấy thêm pizza. “Tôi nghỉ làm một năm và chu du thiên hạ.”
“Tôi vẫn muốn làm điều đó đấy.” “Thế cái gì ngăn anh nào?”
“Tôi cũng không biết là gì nữa. Hai em tôi ở Melbourne và Paris; hết lần này đến lần khác chúng email hỏi tôi khi nào thì đến chơi. Chẳng có gì giữ tôi ở đây ngoài công việc.

Nhưng, cô biết đấy, có vài việc tôi không thể thu xếp được và một trong số đó là một kì nghỉ, cho dù tôi biết mình thật sự cần đi thăm hai đứa em, hoặc hẹn gặp chúng ở đâu đó, hoặc, tôi cũng không biết nữa…”
“Cuộc sống ngắn lắm, anh biết đấy.” Đôi mắt xanh lấp lánh. “Biết đâu tôi đã ném anh xuống nước trên chuyến phà hôm nay và thế là anh hết cơ hội được gặp hai em trai mình, hoặc được ngắm tháp Eiffel.”
“Tôi đã thấy nó trên Google Earth. Trông nó không giống như được ca tụng.”
“Tôi tận mắt thấy Paris lần đầu tiên khi tôi mười chín tuổi. Tôi và bạn trai tôi lúc đó đã đi du lịch bụi suốt những kỳ nghỉ hè. Chúng tôi sống bằng bánh mỳ baguette với phô mai rẻ tiền và ngủ trong những nhà nghỉ đầy bọ chét dành cho dân du lịch bụi. Khi trông thấy tháp Eiffel, tôi đang bên cạnh người con trai tôi nghĩ mình sẽ lấy làm chồng. Nó hệt như một giấc mơ vậy.”
“Tôi tưởng cô không tin vào tình yêu đích thực.” Tôi ghen tị một cách đáng hổ thẹn và phi lý.
“Có ai nói gì về tình yêu đích thực đâu? Đó là lần đầu tiên tôi biết đến sex mà không kết thúc trong nước mắt và tôi nghĩ điều đó thật đặc biệt. Chúng tôi ngồi ngắm tuyết rơi trên tháp Eiffel, chia nhau chút thức ăn rẻ tiền rồi rúc vào nhau và đó là khoảnh khắc lãng mạn tuyệt vời nhất.”
“Vậy, mụ phù thủy độc ác đâu?” Tôi nhắc.
“Ở nhà nghỉ chứ đâu. Khuya hôm đó, tôi bắt gặp họ… cùng nhau. Ngay bên cạnh lúc tôi đang ngủ. Trên cùng một giường, còn đắp cả chung chăn.”
Tôi nhăn mặt, còn Lilah cười khúc khích. “Một câu chuyện quá hay, có phải không?” “Có thật không?”
“Tới từng chi tiết gớm chết.”
“Vậy thông điệp từ câu chuyện này là ‘Đi Paris với người ấy, nhưng hãy mở mắt khi ngủ.’”
“Không, Callum. Thông điệp là ‘Hãy đi Paris.’ Việc này không nghiêm trọng đến thế.”
“Cô nói cứ như quản lý bộ phận HR của tôi vậy.”
“Ồ, nếu anh không chịu nghe quản lý bộ phận HR, thì tôi đang phí phạm hơi sức rồi.” Lilah lại cười vang, rồi với lấy thực đơn trên bàn. “Không ấn tượng với phô mai điều, mà anh ăn gần hết cái pizza.”
Lilah nói đúng và tôi vẫn còn đói lắm. “Chà.”
“Thêm pizza chứ?” Nàng gợi ý, rồi mở thực đơn và lật bìa sau để xem danh sách rượu vang. “Vang đỏ hả?”

Tôi mất một giờ với Lilah để nhận ra rằng nàng sống và thở cùng công việc của mình. Cho đến khoảnh khắc đó tôi đã nói tôi cũng vậy, nhưng công việc của Lilah là đại nghĩa, còn của tôi là một sự nghiệp. Sự khác biệt quá rõ ràng.
“Anh có nhớ đã nghe trên truyền thông hồi năm ngoái về cuộc chiến liên quan đến cái cây gần bãi biển Shelly không?”
“Sơ sơ,” tôi nói dối. Nếu đã nghe về nó, tôi đã để ý đủ để nhớ. Tôi có thể đã thấy một bài báo đâu đó và vứt nó vào thùng rác.
“Đó là công ty của tôi, vụ án của tôi. Một nhà hoạch định muốn đốn cái cây gần khu bảo tồn để tầm nhìn ra biển từ bồn rửa bát nhà y không bị chắn.”
“Tôi thậm chí không biết có một khu bảo tồn ở đó.” Lilah mở to mắt và tôi nhăn mặt. “Xin lỗi. Thế vụ này lớn chứ?”
“Lớn… anh đùa tôi đấy à?” Mặt Lilah xị xuống. “Anh thậm chí không nghe về chuyện này sao?”
“Tôi cam đoan là tôi có nghe.” Lại nói dối và lần này thì không được thuyết phục cho lắm vì nàng nghiêng đầu nhìn tôi, hai mắt nheo nheo. “Chỉ là tôi không nhớ chi tiết.”
“Toàn thể dân cư đều góp tiếng nói, Callum. Cuối tuần nào cũng tổ chức các sự kiện quyên góp để trả phí luật sư cho chúng tôi đấy! Có những cuộc gặp công khai và biểu tình ngay dãy nhà gần đây này! Làm sao mà anh có thể bỏ lỡ cuộc chiến kéo dài sáu tháng ngay trước bậc cửa nhà mình thế?”
“Đợi đã. Tất cả chỉ vì một cái cây thôi sao?”
“Không phải chỉ vì một cái cây, mà vì cái cây đó hai trăm tuổi. Và, anh nên nhớ, tội duy nhất của cái cây là mọc chắn tầm nhìn của một thằng cha béo ục nào đó muốn tận hưởng hai tuần đến nghỉ dưỡng ở đây.”
“Cô dành sáu tháng làm việc để cứu một cái cây?” “Anh đang hiểu sai vấn đề rồi, Callum. Đành rằng nó là
một cái cây thật. Nhưng nó là một biểu tượng gì đó đối với
cư dân nơi đây và chúng tôi không cho một thằng cha ất ơ và cuốn ngân phiếu dày cộp của gã đốn ngã nó. Và anh biết sao không? Một trăm năm nữa, nhà hoạch định đó về với Chúa lâu lắc rồi nhưng cái cây vẫn sẽ đứng an nhiên ở đó. Và chúng tôi đã làm được.”
Mắt Lilah lấp lánh niềm vui và gương mặt bừng sáng niềm tự hào và kiên định, thậm chí việc nhắc đến sự vụ khiến nàng phấn khích đến mức trở nên căng tràn sức sống, hai tay múa may liên hồi để giải thích cho tôi. Khi Lilah nói về công việc của mình, nó có ý nghĩa thực sự, kiểu quan trọng tầm vũ trụ mà tôi không bao giờ tiệm cận được và thậm chí hình như nàng bị cuốn vào công việc của mình. Lilah đang cứu những sinh vật có nguy cơ tuyệt chủng và đấu tranh vì mục đích bù đắp và chống lại những hoạt động khai thác mỏ nguy hiểm. Khi Lilah thành công trong công việc, hệ sinh thái được bảo vệ hoặc cuộc sống con người thực sự được cải thiện. Khi tôi thành công trong công việc, hàng được bán ra và sản phẩm được chuyển giao. Tác động mang tính thế hệ trong công việc của nàng vô kể và tích cực; tác động mang tính thế hệ trong công việc của tôi có thể là bệnh béo phì và ý thức về sự nghèo khổ và thiếu thốn, bất kể con người ta thực sự giàu có như thế nào.
Sự đối nghịch tuyệt đối lẽ ra đang gây trở ngại, nhưng có điều gì đó rất lôi cuốn trong niềm đam mê ấy. Có lẽ đó là sự tự tin cần thiết để thẳng thắn nói ra điều đó một cách đầy đủ hoặc có lẽ chỉ là sự hăng hái tỏa ra từ nàng. Bất kể thế nào, tôi hoàn toàn bị mê hoặc.
“Tôi sẽ cho anh thấy,” Lilah đột ngột lên tiếng. “Thấy gì cơ?”
“Cái cây đó ấy. Anh sẽ hiểu khi nhìn thấy nó.”
Lilah và tôi đã dùng hết chai vang và chiếc pizza thứ hai và nhà hàng đã chuẩn bị đóng cửa. Đã đến lúc đứng dậy đi về, tôi đã hy vọng là sẽ rời đi cùng nàng, nhưng tôi nghĩ là chúng tôi đang hướng về phía căn hộ của tôi hơn là ngược lại.
“Giờ này sao?” “Ừ.”
“Tối thế này ư?”
“Chỉ mất mười lăm phút đi bộ thôi và có lối đi đàng hoàng đến đó. Tôi có thể bịt mắt mà vẫn đến được đó đấy. Anh không làm được sao?”
“Thực ra…”
Lilah mở to mắt, rồi nheo lại.
“Làm ơn đừng có bảo tôi là anh chưa từng đến đó đấy.” “Ừ thì tôi biết nó ở đó chứ; chỉ là bãi biển chính thì gần
hơn và tôi nghe nói bãi biển Shelly rất là nhỏ.”
“Anh đùa tôi đấy à? Anh sống ở Manly mà bảo là chưa từng tới bãi biển Shelly là sao?”
“Có nhiều thứ tôi chưa làm.”
“Thế anh đã làm cái gì? Anh sẽ không bao giờ đến được Paris nếu cả bãi biển Shelly mà anh còn chưa lê chân đến. Nào đi.”
“Nhưng… cô không có giày.”
“Tại sao tôi cần giày để đi trên bãi biển chứ?” “Thế cô không sợ dẫm phải kim tiêm à?”
“Ôi trời, Callum ơi là Callum, nếu cứ sợ này sợ kia như thế thì người ta không bao giờ làm được cái gì cả,” Lilah bật cười và lắc đầu. Nàng với tay lấy hóa đơn và tôi vội giật lấy.
“Để tôi…”
“Tôi đâu có định trả hết.” Lilah nhìn thẳng vào mắt tôi. “Tôi sẽ trả một nửa.”
Sự cương nghị bướng bỉnh trong đôi mắt to màu thiên thanh muốn cảnh báo tôi đứng có tốn công cãi.
“Được rồi.”
Chúng tôi bước ra khỏi cái ấm áp của nhà hàng để đi vào con đường tranh tối tranh sáng. Không khí se lạnh và khi tôi định mở miệng phản đối lần cuối về chuyến đi dạo đêm  khuya, Lilah chẳng nói chẳng rằng lồng tay mình vào tay tôi. Những lời sắp nói ra tắt lịm trước khi rời khỏi môi và tôi tự động đan tay mình vào tay nàng.
Đấy chỉ là một cử chỉ hồn nhiên và đương nhiên nó chẳng là gì, chẳng là gì so với sự thân mật tôi từng có với những phụ nữ khác, hoặc thậm chí là sự thân mật tôi đã hy vọng có với Lilah một lúc nào đó. Nhưng tay nàng nằm trong tay tôi, làn da mềm mại, sự ấm áp của hai lòng bàn tay áp vào nhau… thật không thể nào diễn tả nổi. Tôi nhìn vào mắt nàng và nhận thấy sự hứa hẹn và kiên quyết lấp đầy trong đó. Chúng tôi mỉm cười với nhau. Tôi muốn đứng đó lâu hơn, tận hưởng khoảnh khắc kết nối giản dị và êm đềm, nhưng Lilah rõ ràng có kế hoạch khác, khẽ kéo tay tôi dắt về phía biển.
“Tôi không thể hiểu nổi có người sống ở ngoại ô này mà chưa bao giờ lặn ống thở ở vịnh Cabbage Tree. Anh biết nó là một khu bảo tồn sinh vật biển đúng không?”
“Giờ mới biết.”
Lilah nửa cười, nửa rên.
“Đó là khu bảo tồn sinh vật biển duy nhất ở Sydney. Và mọi người từ khắp nơi trên thế giới đến đây tham quan; có gần hai trăm loại sinh vật biển ở khu bảo tồn và trong đó có năm loài nằm trong sách đỏ. Anh lặn bình khí bao giờ chưa?”
“Chưa… Nhưng mà thử một lần cũng được. Tôi thích nhiếp ảnh; tôi nghĩ một ngày nào đó tôi sẽ thử chụp dưới nước.”
“Có trường học lặn ngay tại Manly; anh thậm chí không cần phải ra khỏi nhà.” Tôi có thể thấy sự bối rối trong giọng nàng và tôi hiểu. Bản tính không chịu thay đổi của tôi cũng khiến tôi hoang mang. Cứ như thể tôi không thể bắt tay vào làm ngay cả những việc tôi rất muốn làm và thế nên những việc tôi làm – đôi khi tất cả những gì tôi làm – là công việc và trì hoãn.”
“Vậy cô cũng lặn bình khí chứ?” Tôi hỏi Lilah.
“Thực ra tôi không thích. Tôi đã lặn và cảm thấy sợ cảm giác bị giam hãm tù túng. Nhưng thế không có nghĩa là không đáng thử!”
Chúng tôi tới một con đường và dừng để đợi ngớt xe. Hai bàn tay vẫn đan vào nhau. Cả hai đều đeo laptop trên vai.
“Cô làm gì để thư giãn, Lilah?” Tôi hỏi.
“Thư giãn?” Nàng lặp lại. “Thế này không phải là thư giãn sao?”
“Ra biển vào lúc nửa đêm với một kẻ gần như xa lạ chẳng biết gì về môi trường là thư giãn sao?”
“Ra biển dưới ánh trăng với một người bạn mới là thư giãn rồi. Có phải anh là kiểu người nghĩ mình chỉ có thể thư giãn trong khi đứng yên không?”
Tôi bật cười. “Đúng vậy.”
Khi chúng tôi luồn lách ra khỏi khu vực thương mại và đi về phía khu bảo tồn, những ánh đèn cửa hiệu mờ dần, thay vào đó là ánh sáng từ vầng trăng sắp tròn. Sự chuyển tiếp đều đều nhưng tinh tế, theo đó là bầu không khí yên tĩnh, tiếng ồn ã của xe cộ và đủ thứ tạp âm nhường chỗ cho tiếng sóng biển ì oạp, những lời nói được thốt ra êm dịu hơn.
“Có thật là anh chưa đến đây à? Chưa từng?” Lilah hỏi.
Tôi chưa từng đến bãi biển chính vào ban đêm, chứ đừng nói là một bãi biển nhỏ hơn nằm ở chốn hẻo lánh mà Lilah đang kéo tôi tới. Tôi đã trông thấy lối đi và phỏng chừng nó dẫn đến một bãi biển nhỏ xíu, nhưng không đủ hứng thú để tự đi đến đó.
“Thực tình là chưa. Nó thực sự là đẹp như cô nói chứ?”
“Anh sẽ tận mắt thấy sau vài phút nữa. À, anh sẽ thấy phiên bản ban đêm.” Sau vài bước, nàng liếc nhìn tôi. “Tôi vẫn không hiểu nổi. Anh sống ngay đây mà chưa từng khám phá nó là thế nào nhỉ?”
Tôi so vai.
“Thì bây giờ tôi đang khám phá nó đây. Tôi muốn đợi sự tình cờ tìm đến mình. Như thế an toàn hơn.”
“Chẳng có gì an toàn về việc đó cả,” Lilah quả quyết. “Nghe có vẻ như anh đang rơi vào nguy cơ chết vì chán đấy.”
“Tôi đâu có chán,” tôi nói. Có một bức tường phòng thủ trong giọng nói của tôi và tôi ngập ngừng nói thêm, “Tôi hài lòng. Chẳng phải đó là thứ chúng ta phải nỗ lực để có được trong cuộc đời này hay sao?”
“Nó tùy thuộc vào việc anh hỏi ai.” Nàng bất chợt dừng lại và chỉ về phía bóng tối trước mặt chúng tôi. “Có một hồ đá dưới kia, vậy chúng ta đi được nửa đường rồi đấy.”
“Cô vẫn thường làm những chuyện như thế này à?” “Như thế nào cơ?”
“Bài học về môi trường đêm khuya với bạn hẹn hò.” “À, trước hết, tôi không hẹn hò,” Lilah cười phá lên.
“Tôi thực sự không hoàn toàn chắc chắn chuyện gì đã xảy
ra trên chuyến phà đó. Bình thường tôi hẳn đã khước từ anh trong một phần nghìn giây.”
“Tôi mừng là cô đã không làm thế.”
Thật vui khi đi dạo dưới ánh trăng, tay trong tay với nàng, bầu trời trong xanh ở trên đầu và những con sóng vỗ vào ghềnh đá bên dưới chúng tôi. Nếu tôi có sáu tuần để chuẩn bị một đêm đặc biệt và một ngân quỹ không hạn chế để tạo ra bầu không khí, tôi hẳn cũng không làm được hơn thế này. Cứ như thể chính đêm nay đang khẽ đẩy chúng tôi, kéo chúng tôi lại gần nhau hơn. Ngay cả khi đến gần đích, tôi để ý rằng những bước chân của chúng tôi đã thực sự chậm lại và cả hai nới lỏng tay, như thể chúng tôi đã nắm tay nhau và đi bộ hàng mấy chục năm trời rồi.
Bãi biển ở ngay trước mắt chúng tôi dưới ánh trăng vằng vặc, cát sáng bừng lên một cách khó tin, tương phản với màu đen của những khối đá xung quanh.

“Cái cây…” Tôi chưa hỏi dứt câu Lilah đã buông tay tôi ra và vùng chạy về phía mép nước.
“Xuống biển trước đã,” nàng nói với lại. “Nào!” Tôi bật cười và lắc đầu, ngắm Lilah thả cái túi xuống một mặt đá phẳng rồi chạy phăm phăm xuống nước, suối tóc xõa tung đằng sau nàng như gió xoáy. Rồi tôi cau mặt khi nàng không chịu giảm tốc độ ngay cả khi đến gần mép nước.
“Lilah, nước lạnh lắm đấy!”
“Tôi đâu có định bơi! Nhưng anh không thể ra biển mà không nhảy sóng được – thế là phạm luật, anh biết không,” nàng kêu lên.
“Ừ, để rồi xem.” Tôi lẩm bẩm, dù tôi biết là nàng sẽ không thể nghe; nàng giờ ở tít đằng trước rồi. Bãi biển được che chắn và sóng thấp. Lilah đứng khựng lại ngay sát mép nước nhưng vẫn nhảy lên con sóng đang lăn tăn xô vào bờ. Tôi đặt laptop của mình bên cạnh cái của nàng, rồi đi lững thững trên cát.
“Không đi giày đã lạ rồi, nhưng vẫn không qua được việc này,” tôi lên tiếng.
“Anh giỡn hả?” Lilah quay lại chớp nhoáng, găm vào tôi ánh nhìn châm chọc tôi không thể bỏ lỡ cho dù trời tối. “Anh không xuống sao?”
“Không xuống? Đương nhiên là tôi sẽ không xuống!” Tôi bật cười.
Lilah quay ngoắt lại, mặt hướng về phía vịnh. Nàng đi thụt lùi cho đến khi những con sóng liếm tới nửa bắp chân nàng và rồi chìa một tay về phía tôi.
“Xuống đi nào, Callum.”
“Không đâu. Nghiêm túc đấy.” Ý nghĩ đó làm tôi rùng mình. Tôi bật cười trước sự cương quyết trên khuôn mặt và thế đứng của nàng. “Tôi thích ngồi đây ngắm cảnh hơn, đâu cần bị ướt chứ.”
“Anh rất cần ướt đấy,” Lilah cau mày. “Anh có thể đứng đó và xem tôi giỡn sóng, hoặc anh có thể cởi đôi giày chết tiệt kia ra và thử đi. Anh biết nước bao phủ bảy mươi phần trăm hành tinh này mà, đúng không? Chỉ cần bước lên phía trước hai bước và anh có thể trông chốc lát là một phần của thứ lớn gần bằng trái đất chúng ta đấy.” Lilah lại chìa tay, nụ cười toe vừa đùa đùa vừa kiên nhẫn. “Dễ ợt, tôi thề đấy.”
“Lạnh chết đi được.” Không hiểu sao tôi nhất định cho rằng đã đến lúc chỉ ra sự thật hiển nhiên cho cái người biết nhiều hơn tôi rằng tôi đúng. Có thể tôi đã hết cớ để viện.
“Một khi anh đã quen với nó rồi thì không quá tệ đến thế.” Lilah vẫy tay. Tôi ngần ngừ và rồi chợt nhận ra rằng mình sắp sửa lao xuống theo nàng. Nhưng rồi quyết tâm, hay có thể là sự sáng suốt, trỗi dậy và tôi cương quyết lùi lại một bước, lắc đầu.
“Tôi không xuống đâu. Cát vào giày hết!”

“Ừ đúng. Cát sẽ vào đầy giày của anh.” Lilah đồng tình. “Nhưng nói thật, giày anh có cát vào rồi đấy, đúng không?”
Tôi ngọ nguậy chân và cảm thấy cát bên dưới vớ. “Nhưng…”
“Để tôi làm cách khác.” Nàng buông cánh tay đang chìa về phía tôi xuống đùi rồi từ từ cong lại làm thành tư thế chống hông. Ngôn ngữ cơ thể nàng thay đổi, hông nàng đẩy về phía tôi, hai vai ưỡn ra trước, cằm cúi xuống. “Anh muốn hôn tôi không?”
Nếu nãy giờ vẫn chưa, thì lúc này Lilah đã chiếm trọn sự chú ý của tôi. Nàng thong thả hất tóc lòa xòa ngang mặt và tôi không thể không thấy biểu cảm của nàng biến đổi từ đùa cợt sang giễu cợt thẳng thừng.
“Sao hả?” Lilah khiêu khích. Nàng đã “tóm” được tôi và nàng biết điều đó.
“Cô tự tin quá mức đấy, Lilah Owens.”
“Tôi có thể đọc anh như đọc một cuốn sách ấy. Anh muốn hôn tôi và tôi muốn anh hôn tôi. Nhưng tôi cũng thấy rằng sâu tít trong lòng mình anh cũng muốn lội nước, nên tôi nhất định sẽ không lên bờ chừng nào anh còn chưa chịu xuống. Nếu anh thực sự muốn có một kết thúc tốt đẹp nào đó cho đêm nay, thì hãy cởi đôi giày chết tiệt đó ra và xuống đây.”
Tôi rên lên và khom người xắn quần lên đến đầu gối rồi cởi đôi giày da màu đen ra. Kế đó tôi gấp đôi vớ màu xám lại và nhét chúng vào giày. Khi hai chân vừa tiếp xúc với cát thô lạnh, tôi giật nảy người.
“Mong là nụ hôn xứng đáng,” tôi lầm bầm.
Lilah cổ vũ khi tôi đến gần mép nước. Cát thô trở nên mịn hơn và tôi kêu lên khi chân chạm vào nước.
“Lạnh cóng.”
“Thôi nào. Nếu anh nghĩ nó lạnh thì anh rõ ràng chưa từng đi Nga.”
Ngay lập tức nàng nắm lấy tay tôi, kéo tôi về phía trước vài bước và nước bây giờ ngấp nghé mắt cá tôi.
“Này, cô dùng nụ hôn để dụ tôi xuống đây…”
“Tôi quả thực là định hôn vội vào má anh một cái rồi bỏ chạy đấy,” nàng toe miệng cười, nhưng nụ cười phai dần khi chúng tôi tự động bước lại gần nhau.
“Định thế à?” Giọng tôi lạc đi. Lilah đặt bàn tay lên ngực tôi và hai ánh mắt giao nhau, khoảnh khắc đùa giỡn đột ngột kết thúc.
Những con sóng tấp vào bắp chân tôi và không hiểu sao tất cả những lời nói ngớ ngẩn của nàng về việc nhúng chân xuống nước dường như trở nên đúng đắn và đáng kinh ngạc. Tôi chạm vào má Lilah bằng mặt ngoài của ngón tay trỏ, rồi xoay bàn tay ôm lấy khuôn mặt nàng khi cúi xuống hôn. Đó là một nụ hôn lịch sự, một nụ hôn cung kính, dù tôi dám khẳng định lẽ ra nó đã kéo dài nguyên như thế nếu không một có một con sóng lớn thình lình xô tới ngang đùi tôi lạnh thấu xương.
Lilah bật cười và kéo tôi về phía bờ. Vì thấp hơn tôi nhiều, nên giờ nàng ướt hết phía lưng. Tôi cũng cười vang, kiểu cười mà tôi không nhớ mình như thế lần cuối là khi nào, kiểu cười ngặt nghẽo vì vui và sửng sốt đến mức không thể nói được gì. Lilah ngồi bệt xuống cát và tôi cũng ngồi xuống bên nàng. Nhưng vì sự thực là bàn chân tôi lạnh như đá và nửa dưới quần tôi nước chảy long tong, nếu không thì hẳn tôi đã ngờ rằng mình vừa trải qua một giấc mơ phiêu diêu.
“Ối chà,” Lilah nói.
“Cô không sai,” tôi cười lớn. “Đúng là phép màu.”
Lilah kéo túi xách xuống từ tảng đá bên cạnh chúng tôi và để nó cạnh mình, lấy nó làm gối rồi nằm xuống.
“Bộ complet của cô… cát…” Tôi toan phản đối, nhưng Lilah nhăn mặt cho thấy tôi lại một lần nữa không hiểu ý. Tôi thở dài và làm theo nàng, lót cặp đựng laptop sau đầu.
“Ngắm sao kìa,” nàng nói. “Anh không ghét việc ô nhiễm ánh sáng của thành phố xóa nhòa ánh sao như thế kia sao? Anh thậm chí không thể thấy dải ngân hà từ đây. Chỗ của tôi ở Gosford chỉ cách đây chừng chín mấy cây số, nhưng nó cứ như là một bầu trời khác vậy. Tôi thường ngồi trên bàn làm việc vào đêm muộn và ngắm sao băng như ánh đèn flash của máy ảnh ấy.”
Tôi rờ tìm tay Lilah đặt trên nền cát lạnh và chúng tôi lại đan tay vào nhau. Tôi chợt nghĩ rằng nàng thấy bầu trời đêm quang mây hôm nay cũng tương tự như những hôm khác và chỗ khác thôi, nhưng lúc này bên cạnh nàng tôi cũng đang nhìn chính quang cảnh ấy và sững sờ bởi vẻ đẹp của nó. Tôi cố nhớ liệu mình đã từng ngắm sao khi còn bé chưa. Tôi còn nhớ cha dẫn tôi và hai em trai đi cắm trại với ông vài lần – chắc chắn tôi đã nhìn lên trời ít nhất một lần. Hoặc có thể là chưa, vì tôi như thể đang ngắm sự rộng lớn của bầu trời bằng đôi mắt hoàn toàn mới mẻ.
Lilah thở ra nặng nhọc bên cạnh tôi rồi dịch lại gần hơn, nhưng đồng thời tôi cố vòng tay ôm người nàng và chúng tôi cười khúc khích như tụi tuổi teen khi chạm vào nhau một cách vụng về. Rốt cuộc nàng ổn định chỗ nằm sao cho đầu tựa lên ngực tôi. Cuối cùng tôi cũng đã ôm được nàng. Lilah nhẹ và sức nặng của nàng trong tay tôi như chẳng đáng gì, nhất là so với sức nặng của khoảnh khắc này.
“Hai đứa sẽ bị hạ thân nhiệt và bỏ mạng ngoài biển đấy,” tôi nói khẽ.
“Vậy nói lời trăn trối đi, em thì em ước được đi Paris,” Lilah thì thào.
Tôi bật cười và cảm thấy ngực nàng rung lên chạm vào ngực tôi. Trong vài phút, chúng tôi nằm như thế trên cát lạnh, ngắm sao và tận hưởng sự im lặng gần như tuyệt đối không dễ gì tìm thấy được trong thành phố. Cuối cùng Lilah chuyển sang tựa cằm lên ngực tôi và nhìn tôi đăm đăm. Tôi đưa bàn tay rảnh lên chạm vào mái tóc dày mềm rối tung xõa xuống vai của nàng rồi rê rê môi nàng. Và rồi nàng rướn người lên để mặt nàng bên trên mặt tôi và hôn tôi.
Nụ hôn này khác với nụ hôn ban nãy. Chậm rãi và gần như lạ thường, đó là sự tương đương về vật lý của cuộc nói chuyện nhẹ nhàng khi chúng tôi đi từ Manly đến bãi biển. Chúng tôi đang tìm hiểu nhau và cát lạnh dưới lưng, chiếc quần ướt đẫm và hai bàn chân cóng từ từ rơi vào quên lãng dưới sức nóng của nụ hôn cuồng nhiệt.
Khi Lilah dứt ra khỏi tôi một lát sau, tôi cảm thấy đầu óc váng vất, như mọi thứ đang quay mòng mòng không kiểm soát. Có điều gì đó đang diễn ra giữa chúng tôi, điều gì đó tôi chưa biết dùng ngôn từ nào để miêu tả, nhưng rất thật. Lilah nằm trở lại tư thế cũ, giờ đặt cánh tay lên ngực tôi làm gối và nhìn tôi đăm đăm. Ánh nhìn của nàng hơi giễu cợt và tra vấn.
“Anh từng làm tình trên bãi biển chưa?” Lilah hỏi, nhưng giọng nàng tò mò hơn là gợi ý. Tôi nhướng mày nhìn nàng và rướn người lên một chút để có thể duy trì tiếp xúc bằng mắt với nàng mà không cần phải làm tư thế nửa ngồi nửa nằm.
“Chưa.”
“Em rồi,” nàng nói và chun mũi. “Anh nghĩ thế nào về hiện thực so với mong đợi? Cát, sự ma sát và những bộ phận cơ thể nào đó không phải là sự kết hợp hoàn hảo.”
“Anh cá là em bị dạt trên một đảo hoang với một chàng thủy thủ đẹp trai hoặc một sự kết hợp mang tính phiêu lưu tương tự.”
“Thực ra, em đã đến Fiji,” Lilah bật cười khẽ. “Dù vậy em chỉ bị mắc cạn một tí thôi. Mẹ em hát trên một tàu thủy và em bay đến để ở với bà vài ngày giữa những cuộc dạo biển của bà. Khi máy bay hạ cánh bà mới nhận ra tàu của mình đang neo ở Cảng Villa, ở Vanuatu, nên em ở đúng vùng rồi, nhưng sai chỗ. Em và bạn trai em khi ấy có ba ngày loanh quanh Denarau mà không có kế hoạch gì nhiều.”
“Vậy là em tự tìm cách giải trí.”
“Đại để,” Lilah thừa nhận, rồi thở dài. “Em không giỏi nhìn đàn ông. Người đó là một kẻ đại ngốc.”
“Có thể theo thời gian em đã chín chắn hơn. Em đã chọn đúng tối nay.”
Lilah cười khẽ.
“Anh muốn về chưa?”
Tôi muốn ôm nàng và bế nàng chạy một mạch về căn hộ của mình thì có và đồng thời, tôi không muốn ánh trăng làm kẻ phá bĩnh.
“Chẳng phải em đưa anh đến đây xem cây à?” “À, có chứ.”
Tôi đứng dậy và giúp Lilah đứng lên và cả hai chúng tôi phủi cát ra khỏi người – càng nhiều càng tốt vì nó bám chặt vào những chỗ ướt trên người chúng tôi. Lilah dẫn tôi đi ngược lại và khi trở lại con đường, nàng chỉ lên ngọn đồi đằng sau chúng tôi. Tôi có thể nhìn thấy ánh đèn từ các ngôi nhà dọc theo con dốc. Với cái miệng vịnh rộng ngoác đằng sau, tôi rất hiểu người nào đó muốn mở rộng tối đa tầm nhìn của mình. Dù vậy tôi không định nói cho Lilah biết điều mình nghĩ.
“Đó,” Lilah chỉ về phía hình dáng của một cây thông Norfolk Island nhô lên nổi bật trên nền trời đêm màu xám. Tôi nhận ra vì nó cũng giống như vô vàn những cây thông khác dọc theo bãi biển Manly, nhưng sự thật là, có thể đó là loài duy nhất tôi biết tên. Nó cao hơn những loại cây khác trong vùng và làm nên một hình bóng tương phản với ánh sáng của một ngôi nhà lớn đằng sau nó. “Cây đó đó. Giờ thì anh hiểu rồi chứ?”
Quả tình, tôi chẳng hiểu gì cả, dù chỉ một chút. Và tôi biết rằng cho dù có đến đây vào ban ngày, tôi cũng sẽ không hiểu ý của nàng. Tôi có thể vẫn đứng về phía người chủ nhà kia, người rõ ràng là có đủ tiền để sở hữu một miếng đất có hướng nhìn đẹp như thế và có thể ông ta đã làm việc đủ vất vả để xứng đáng tận hưởng khung cảnh biển xanh lấp lánh lúc đứng rửa chén.
Dù vậy tôi hiểu rằng bất kỳ ai kiên quyết tin hoàn toàn vào điều gì đó và nhất định đấu tranh cho nó như Lilah sẽ không hiểu nhận thức của tôi. Nên tôi huýt sáo, như thể sửng sốt bởi cái cây cũng như bởi nàng và tôi chầm chậm lắc đầu.
“Đẹp thật. Em bảo hai trăm năm tuổi phải không?”
“Vâng.” Lilah nhìn chăm chăm trong im lặng một hồi, như muốn thể hiện sự tôn trọng. “Em biết anh sẽ hiểu nếu nhìn thấy nó. Có vài điều người ta cần tự mình trải nghiệm, có phải không?”
Ánh mắt tôi vơ vẩn trở xuống đồi và dừng lại trên gương mặt nàng.
“Chính xác.”

Tôi không nhớ được mình đã đồng ý ra biển, tôi không thể nhớ mình đã bàn luận chúng tôi sẽ đi đâu, nhưng tôi biết đích đến là căn hộ của mình. Lần này chúng tôi đi nhanh hơn, có lẽ bị hối thúc bởi sức nóng mỗi lúc một mãnh liệt giữa hai đứa, hoặc có thể là sự khó chịu của bộ quần áo nhớp nháp trên người và một đêm đông lạnh lẽo. Cuộc trò chuyện giữa chúng tôi trở nên đứt khúc, câu hỏi ngắn và lời đáp lại ngắn và rồi chỉ còn tiếng hơi thở của cả hai khi chúng tôi đi với tốc độ hơi kém thoải mái.
Khi rốt cuộc tôi cũng mở được cửa căn hộ của mình và chúng tôi bước vào, Lilah ngay lập tức thả rơi chiếc váy lên sàn trong một cơn mưa cát. Tôi đặt chùm chìa khóa lên giá và cố kiềm nén sự sửng sốt và mừng rỡ.
Lilah đưa mắt sang tôi với ánh nhìn giễu cợt mà tôi đã dần trở nên quen thuộc, như thể phản ứng của tôi là điều lạ lùng duy nhất đang xảy ra lúc này và đi thẩn thơ vào căn hộ của tôi trên người là chiếc áo vest và quần lót.

“Anh chỉ đùa khi bảo là đang sửa nhà giữa chừng, đúng không?” Lilah nhận xét. Nàng khom người rê tay lên mặt chiếc bàn thấp làm bằng gỗ chắc nịch mà tôi đã chi một số tiền kha khá để rinh về, vô tình tạo điều kiện cho tôi chiêm ngưỡng cặp đùi và đôi mông lấm tấm cát của nàng. “Bàn cà phê đẹp đấy. Phòng ngủ ở đâu?”

Hôm sau thức dậy, tôi thấy trong người đầy hứng khởi và có cảm giác thật lạ. Cuộc sống không mang lại cho tôi sự háo hức nữa và mọi thứ đã như thế suốt một thời gian dài. Lilah thực sự đã sai khi bảo tôi chán, nhưng tôi chắc chắn là không hạnh phúc, tôi chỉ đạt được mọi thứ tôi muốn và rồi tôi rơi vào một khoảng không.
Nằm đó, với mùi hương cơ thể của Lilah trên tấm ga giường, tôi cảm thấy có điều gì đó sống dậy trong lòng. Đó là cái chồi xanh nhỏ nhất trên nhánh cây hoàn toàn trơ trụi, nhưng nó vẫn còn ở đó và tôi biết rằng nó có thể phát triển thành một thứ gì đó phi thường.
Tôi nhận ra ngay khi mở mắt rằng Lilah đã ra về. Nằm trên giường, tôi lia mắt khắp phòng tìm kiếm một dấu hiệu gì đó cho thấy nàng thực sự đã ở đây, nhưng chiếc sơ mi ngay cửa… chiếc áo vét cạnh giường… chiếc túi xách ở chỗ sẽ là nơi đặt tủ quần áo… tất cả đều biến mất.
Tôi đi tắm và mặc quần áo đi làm, cố lẩm nhẩm nhắc mình về các cuộc họp trong ngày và những hạn chót cần thực hiện để cảm giác thất vọng không dâng lên. Có mấy tấm ảnh cần xem lại với một nhóm, một bài thuyết trình cần bắt tay vào làm và một khách hàng cần thuyết phục. Tôi cần nói chuyện với HR về việc tuyển người viết bài quảng cáo và thảo luận kế hoạch quản lý hiệu suất làm việc cho nhà nghiên cứu, cái người liên tục gây áp lực khiến tôi đau đầu. Chỉ còn một tuần nữa là đến cuộc họp ban lãnh đạo mà tôi vẫn chưa chắc chắn liệu có nên gợi ý chấp nhận và thực hiện ngân quỹ IT được đề xuất cho năm tới. Quá nhiều việc cần làm, quá ít thời gian, nhất là sau một đêm hoàn toàn không sinh lợi.
Chỉ khi bước lên phà và đưa mắt nhìn khắp lượt đám đông trong giờ cao điểm để tìm kiếm bóng dáng của Lilah, tôi mới nhận thấy lòng mình trĩu nặng.
Tôi không muốn làm người tình một đêm của Lilah, nhưng điều tệ hại nhất là, tôi không ngờ mình lại như thế. Tôi đã hoàn toàn mất cảnh giác và đau một nỗi là tôi đã tự đẩy mình vào chỗ dễ tổn thương đủ để cảm thấy quá thất vọng sau chỉ một đêm.


Bình luận