Chapter 4

icon
icon
icon

Đang ngồi trước ngôi nhà cổ hơm trăm tuổi, Tường thấy một đám mây ngũ sắc xuất hiện, từ phía xa có chiếc kiệu sơn son thếp vàng được mấy người lính khiêng lại gần, tiếng kèn tiếng sáo cùng tiếng quân cấm vệ dẹp đường khiến Tường chú ý, vị phu nhân ngồi trên kiệu có nét mặt kiêu sa, tay cầm chiếc quạt lông phe phẩy. Nhìn thấy đám dân đen quì rạp xuống hai bên đường, Tường nhận ra đó vị Quí Phi của dòng họ nhà mình, chưa kịp thi lễ bỗng đoàn xa giá biến mất, thay vào đó là những vị mệnh quan triều đình với thẻ bài ngà đeo trước ngực đang nghiêm khắc nhìn y. Không khó để nhận ra liệt tổ liệt tông, quá sợ hãi nên Tường vội quì sụp xuống, bất ngờ ngay trước mặt có thằng bé đứng trước mặt nhìn y cười khanh khách. Thằng bé con không mặc quần chỉ buộc chiếc yếm màu tím, Tường thấy trên tay nó cầm một tờ giấy nhưng y chưa kịp hỏi thằng bé đang cười lại òa khóc nức nở khiến Tường giật mình.

Khó nhọc ngồi dậy Tường biết mình trải qua giấc mộng kì lạ, mồ hôi túa ra ướt sũng bộ quần áo đang mặc. Tiếng người vợ hỏi ngay bên cạnh; Mình dậy húp bát cháo rồi uống thuốc, may hôm nay mình đã chợp mắt được hơn hai tiếng rồi.

Kể từ ngày bỏ rừng về phố, mộng làm giàu tan biến nhưng bệnh tật lại từ rừng theo về không buông tha cho Tường, những năm tháng giang hồ tứ xứ chìm trong thuốc phiện khiến thân thể của y tàn tạ. Đúng như tiên đoán của ông bố già năm xưa, khi cụ Lê Duy Hưởng nhắm mắt ông con trai vẫn còn say sưa bên bàn đèn thuốc phiện nơi bãi vàng không biết quay về chịu tang. Tường đi hết các bệnh viện nhưng mọi nơi đều từ chối khéo, căn bệnh xơ gan rồi khắp cơ thể lở loét khiến y không sao ngủ được vì đau đớn. Bình thường chỉ cần dùng kháng sinh là đỡ, nhưng do gan của y quá yếu nên việc dùng kháng sinh sẽ đi nhanh hơn.

 

Cảnh sống không bằng chết khiến Tường bi quan chán nản, thương chồng nên người vợ tào khang của y lăn lộn tìm thuốc nam, thuốc bắc giúp chồng. Húp xong bát cháo, Tường kể lại giấc mơ kì lạ, đến việc gặp thằng bé lên ba, tự nhiên Tường hỏi vợ:

-Em nhớ lại xem ngày trước con mình bị bắt có mang theo vật gì không, nếu còn sống bây giờ nó đã 13 tuổi rồi.

Vợ Tường ngồi thần người một lúc rồi kể lại; Trước ngày được ra viện, chính ông nội đã nhờ người mang vào viện một chiếc lắc bạc để kị gió. Em nghe nói ông tự chống ba toong sang phố Hàng Bạc đặt làm riêng cho thằng cháu đích tôn, trên chiếc lắc bạc có khắc tên con là Lê Duy Thành. Do con mới sinh nên da của bé còn non, lúc đó em có đặt chiếc lắc bạc ngay trong tấm chăn quấn con. Tường thoáng rùng mình vì nhớ lại thằng bé có chiếc lắc bạc thật, còn vì sao nó chỉ ba tuổi chứ không phải một thiếu niên là điều khó hiểu.

Đợi chồng uống hết bát thuốc vừa sắc lúc tối, vợ Tường rụt rè nói:

-Ông thầy lang cắt thuốc cho anh có biết xem tướng, dù chưa gặp nhưng ông nói anh bị vong ám. Ông nhắc em về hỏi xem anh có cầm đồ gì của người cõi âm không, chỉ khi nào trả đồ anh mới có được sự thanh thản.

Tường nghĩ mãi không thể nhớ ra, cuộc đời y còn gì xấu xa không làm, nhưng cầm đồ của người âm thì y không rõ. Trong lúc cúi gập người xuống vì những cơn ho như xé phổi, Tường nhớ ra chiếc chìa khóa vẫn đeo trên cổ bấy lâu nay, y đã hiểu rõ đây là vật không phải của mình.    

Chiếc xe 9 chỗ được thuê riêng để đưa vợ chồng Tường lên Sơn La, mặc dù lúc này bệnh tình của y trở nặng đến mức ngồi không vững, tuy nhiên nhờ mấy bi thuốc phiện nên Tường đủ sức chống chọi để quay lại nơi y đã chiếm đoạt chiếc chìa khóa cổ. Đường lên Sơn La đã đẹp hơn xưa rất nhiều, tuy nhiên do Tường quá yếu vì thế xe không chạy nhanh được. Ngồi dựa vào người vợ, Tường kể về những bản làng nơi y đã đi qua, những con suối nơi y đã tìm vàng. Giấc mộng đổi đời khiến y thân tàn ma dại khi tuổi mới chớm 50, điều khiến Tường ân hận và thấy có lỗi cùng tổ tiên là không thể có người nối dõi.

Con đường vào bản Phiêng Pắng đã được mở rộng, chính vì thế con xe ô tô 9 chỗ đi sát vào tận chân ngôi nhà sàn của thầy mo Đèo Văn Phan, đàn chó lại được dịp sủa râm ran khi thấy người lạ, nhìn chúng Tường đoán đây là đám con cháu của đàn chó ngày trước. Nhờ có người lái xe dìu Tường khó nhọc bước chín bậc cầu thang lên tới nhà sàn, lúc này ông mặt trời đỏ rực đang dần khuất sau rặng núi, sống ở rừng lâu nên Tường biết rõ, chỉ chút nữa thôi màn đêm sẽ buông xuống nơi đây. Vị chủ nhà tiếp đoàn khách dưới xuôi là thầy mo Đèo Văn Thản, người đã nối nghiệp khi cha mình về với tổ tiên. Thầy mo Đèo Văn Thản cũng là người uống bát rượu có pha thuốc ngủ dạo nào, bởi vậy khi nhìn thấy Tường là hiểu ra mọi chuyện.

Đợi cho kẻ đã trộm bộ xương hổ ngày nào thú tội, lúc này thầy mo Thản nhẹ nhàng phân tích; Việc đã qua không cần nhắc lại, hôm nay anh đã mang chìa khóa cổ trả lại cho bố tôi là việc tốt. Ngay trước nơi thờ cúng gia tiên, tôi sẽ dùng chiếc chìa khóa để mở cái tráp cổ, khi tráp được mở ra cũng là lúc lời nguyền được hóa giải. Nhìn thấy chiếc tráp phủ bụi được thầy mo Thản bưng trong góc tối nhất của ngôi nhà sàn ra ngoài, Tường kinh ngạc khi nhận ra đó là chiếc đồ gia bảo của dòng họ Lê Duy, chính tay y đem bán cho lão người Tàu ở phố Hàng Buồm, tại sao nó được thay chiêc khóa khác, tại sao nó ở đây là điều Tường không sao hiểu nổi. Sau  khi niệm chú và thỉnh an các vị thần, thầy mo Thản nhận lại chiếc chìa khóa cổ rồi mở tráp gỗ.

Dưới ánh lửa bập bùng của bếp lửa, bên trong chiếc tráp là một sọ trẻ em, điều đặc biệt là trên đỉnh của sọ có dán một lá bùa yểm với chi chít chữ Phạn. Sống ở vùng dân tộc nhiều năm nên Tường biết, nhiều thầy mo đã luyện thiên linh cái rồi thờ làm ma xó, nhưng vì sao nó ở trong tráp chỉ có thầy mo Đèo Văn Phan biết được, tiếc là ông đã về với tổ tiên lâu rồi. Nhìn bên cạnh chiếc sọ có vật bằng kim loại, Tường đưa tay cầm lên xem kĩ, đó là chiếc lắc bạc của trẻ em có khắc chữ Lê Duy Thành. Mặt đất bỗng ầm ầm rung chuyển như động đất, tiếng vợ Tường rú lên một tiếng thê thảm rồi ngã lăn ra nhà sàn ngất lịm.

Khi Tường cảm nhận cơn lũ quét đang tràn về, y bỗng thấy đám mây ngũ sắc xuất hiện trở lại, bên cạnh xa giá của vị Quí Phi có thằng bé con đeo lắc bạc, trong giây lát hồn của Tường đã thoát khỏi thân xác để biến vào đám mây ngũ sắc. Trong nháy mắt cơn lũ quét đã cuốn phăng đi tất cả, bản Phiêng Pắng mất dấu kể từ đó.

HẾT!

Bình luận