Không muốn dính chuyện thị phi, trương tuần Long nhất quyết kéo vợ về nhà, gã tuyên bố khi nào kèn trống nổi lên, lúc đó tha hồ sang đó ôm quan tài khóc cả đêm cho đến tận sáng ngày kia ra tới huyệt mộ. Thấy vợ nhất quyết đòi sang nhà ăn thua đủ với người chị dâu, trương tuần Long kéo chiếc chõng tre chắn ngang lối đi, gã bưng điếu bát ngồi bắn thuốc lào rồi chỉ tay vào thước gỗ lim tuyên bố:
-Bà chỉ cần bước qua đây, tôi vụt què chân rồi cõng sang ông lang Huân bó thuốc khỏi gây chuyện.
Sở dĩ hôm nay gã mạnh miệng là có nguyên do, ông anh vợ khó tính như ma giờ đã chết, gã cóc sợ mấy thằng cháu vợ kể cả thằng lý Hoà. Thói đời con giun xéo lắm cũng quằn, nếu nhà vợ o ép quá, gã dí vào làm chức trương tuần để ngả qua phe khác. Sở dĩ lý Hoà trụ được bởi có ông bố chống lưng, giờ ông ý cưỡi hạc bay đi, đám bếp Tình, phó lý Hào rồi mấy người khác sẽ chẳng để yên. Ít học nhưng gã vẫn nhớ câu mấy vị chức sách hay nhỏ tỏ thầm thì, làng Mật thuộc thế đất quần ngư tranh thực, gã ngẫm thấy đúng nên hiểu rõ phe nào cũng cần đến kẻ tay dao tay thước như mình. Không có tiền chạy chức phó lý, giờ một điều bẩm ông lý, hai điều bẩm ông lý với tay cháu vợ, gã biết chẳng mong chờ gì nhà họ Trần giúp đỡ, như vậy tốt nhất phải thức thời giống con chim khôn chọn cành để đậu. Sau những cái chết liên tiếp, giờ đây gã chẳng dám tơ tưởng đến kho báu của họ Trần, thượng sách là lựa theo chiều gió để thu lợi cho bản thân. Đang ngồi hút thuốc lào, vợ gã sau khi đổ cám cho lợn ăn liền lại gần, hình như cái thước lim chẳng làm thị nhụt chí bước qua. Chẳng muốn đôi co rồi hàng xóm lân bang chê cười, gã cầm thước lim gõ nhẹ xuống nền sân thay lời cảnh cáo. Ngay khi thấy vợ cắp nón đi tới, gã vung cây thước lim vụt vào không trung tạo thành luồng gió để cản bước. Cây thước lim bất ngờ bay lên cao rồi như diều đứt dây rơi thẳng xuống giếng nước, khi trương tuần Long định thần nhìn lại, gã thấy vợ mình đang thu đoạn dây lụa về cuộn gọn trong tay. Tiếng bà vợ gã nói nhỏ nhưng kiên quyết:
-Nếu ông còn cản tôi, việc rơi xuống giếng cùng cây thước là điều không tránh khỏi.
Bỏ mặc lão chồng như Từ Hải chết đứng, bà Bàng te tái chạy sang nhà anh trai, dẫu biết mình có phần hơi quá đáng với chị dâu, nhưng là người họ Trần nên bà quyết phải can dự. Khi những người huynh trưởng và huynh thứ mất đi, đương nhiên tiếng nói của bà trong họ chẳng ai dám xem thường. Bằng tuổi người vợ ba của anh trai, bà chưa từng coi người đó là chị dâu bởi nhiều nguyên do, thứ nhất thị đã không sinh hạ được một đứa con nào mang họ Trần, đó là tội to nhất. Điều thứ hai khiến bà sống để bụng chết mang theo, hôm giỗ tổ đợt trước, thị ta đứng nhìn bà bị lôi khỏi gian từ đường với vẻ thờ ơ. Hiện nay cả Hiển sống an phận nhờ ăn tự của vị trưởng họ không tính, lý Hoà đương nhiên sẽ tiếp quản cơ ngơi của anh bà như lẽ thường tình. Riêng bà phận nữ nhi ngoại tộc, nếu không nhanh tay thu vén, rồi đến cái bát mẻ chẳng còn chứ đừng mơ hão việc mau chức phó lý cho chồng.
Chẳng mong được chia thêm chút gì bởi phần của mình đã có, bà chỉ mong khi tang gia bối rối, biết đâu bí mật về kho báu sẽ được phát hiện. Lấy chồng hơn hai chục năm, dù đôi lúc cãi nhau hoặc va chạm, chưa bao giờ bà tỏ ý hỗn xược, dẫu sao luôn ý thức về gia đình và dòng họ, bà lấy câu một điều nhịn là chín điều lành để êm ấm của nhà. Hôm nay mọi sự đã khác, sợ lỡ mất giờ liệm anh trai, bà phải dùng tuyệt chiêu Thất tiết kim tiêncủa họ Trần để dằn mặt chồng. Đoán chắc anh trai người đâu của đó, bà muốn kiểm tra túi áo xem có chìa khoá hay một thứ gì liên quan đến kho báu, giả sử chưa tìm được ngay, bà tạm bê chiếc đỉnh được đúc bằng bạc pha vàng mang về nhà. Trong ngôi từ đường có chiếc đỉnh đúc bằng đồng tam khí, nhưng giá trị thua xa chiếc đỉnh bạc pha vàng này. Bà nhớ rõ chiếc đỉnh được đúc vào năm Khải Định nguyên niên (1916), tức là sau khi anh trai đậu Cử nhân được một năm. Không ham mỗi cái đỉnh bạc, nhưng bà chẳng cam tâm để người ngoài hưởng hết, giá kể thị sinh con lại đi một nhẽ, bởi chẳng người cô nào tranh phần của cháu. Giờ đây khi anh trai khuất núi, bà sợ thị khuân của về cho gia đình bên ngoại nên phải sang bòn mót.
Đi ngang qua chỗ mấy người làng đang đứng, bà Bàng nghe thấy lão bếp Tình khoe, làng Mật năm ngoái cụ tiên chỉ đứt bóng, ông Cử Vinh thế chỗ không trụ được nửa năm cũng phải buông tay, như vậy ngoài lão chẳng ai xứng làm tiên chỉ. Biết anh trai thậm ghét lão bồi bếp cho tây còn về làng vênh mặt, bà Bàng dừng lại nói mát mẻ:
-Cụ Tình mà làm tiên chỉ, khéo cả làng Mật được ăn khao món bò hầm trộn mắm tôm theo kiểu Pháp - Việt đề huề nhỉ.
Bị em gái cụ Cử Vinh chửi xỏ khiến bếp Tình nổi điên, lão muốn gọi đám con cháu ra chửi góp, rất may nhiều người can ngăn bởi nhà họ Trần đang có tang, ầm ĩ khéo lại rước hoạ vào thân. Từ ngày anh trai là lý Hoạch mất đi, lão mong có ngày họ Lê mở mày mở mặt, tin cụ Cử Vinh quy tiên khiến lão mừng như mở cở trong bụng, họ Lê sẽ liên kết thêm họ nữa để tay lý Hoà bay chức không còn cơ ngóc đầu. Tính là vậy nhưng việc họ Tống kết tình thông gia với họ Trần là tin buồn, bởi hoá ra đám họ Trần như hổ mọc thêm cánh còn họ Lê trên con đường tàn lụi. Có một điều khiến lão thấy mừng, tay lý cựu Tống Thanh nghe đâu ốm liệt giường, như vậy gọi thế chân vạc cho sang miệng, kì thực làng Mật chỉ họ Lê và họ Trần ganh nhau, họ Tống giờ chả còn ai xứng tầm. Ngẫm nghĩ một lúc lão chợt nhớ ra, tay đồ Tăng họ Tống dù không dự hàng chức dịch, nhưng là kẻ đọc sách Thánh hiền nên thâm trầm khó đoán trước điều gì.
Chưa đến giờ Ngọ nên mọi người tản mát sang nhà thờ họ để ăn, từ nay đến lúc phát tang còn dài, bà Bàng đưa mắt nhìn nhưng không thấy kẻ dám to gan đuổi mình ở trong nhà. Vừa ra chiêu với chồng, bà chẳng ngại dùng tuyệt chiêu Thất tiết kim tiênlần nữa nếu thị Xoan dám bỉ mặt. Trong ngôi nhà ba gian hai chái, ngoài con bé Lượm đang thu dọn bát đĩa, bà thấy cháu ruột mình là lý Hoà đang ngồi canh bên sập nhằm giúp người quá cố đỡ hiu quạnh, mặc dù về lý mà nói, giờ đây anh bà hồn xiêu phách tán cho đến sau lễ cúng ba ngày mới quay về được. Không chậm trễ một giây, giống kẻ trộm cổ vật chuyên nghiệp, bà Bàng mở bao tải đay rồi nhấc chiếc đỉnh bạc thời Khải Định nguyên niên cho vào, tiện tay bà nhấc con rồng được đúc bằng đồng đỏ và chạm khắc vô cùng tinh xảo, món đồ này chẳng phải của làng đúc đồng Đại Bái hay làng Phúc Xá. Ngửa bụng con rồng có dấu triện và dòng chữ Hán ghi rõ “ Vĩnh Lạc thập cửu niên tuế”, nghĩa là con rồng được đúc vào đời vua Minh Thái Tông năm thứ 19. Do tuổi đời món đồ cổ hơn 500 năm, bà chỉ cần mang về Hà Nội là có ngay cả ngàn bạc Đông Dương.
Bà Bàng nhẩm tính, với số tiền lớn như vậy, nếu chồng có bản lĩnh sẽ mua luôn chức chánh tổng cho đỡ mất công tranh chức lý trưởng của người cháu ruột. Đã mang tiếng bòn mót, tiện thể bà nhấc luôn bộ chén ngọc vốn chỉ dùng dâng rượu, dâng trà trên bàn thờ vào những kì giỗ chạp, giờ đây anh trai không còn, bà sợ thị Xoan tẩu tán bằng sạch. Thấy cháu trai nhìn mình vẻ ngạc nhiên, bà chép miệng:
-Ai cũng có phúc có phần, tôi giữ cho anh cùng cả Hiển, như vậy chẳng tốt hơn để người ngoài nó chiếm hết.
Bình luận