Chương 5

icon
icon
icon

Bác sĩ nói, Chúng ta phải xem có cái mai hay xẻng hay bất kỳ cái gì quanh đây không, một cái gì dùng để đào được. Buổi sáng, họ đã cố lắm mới mang được xác vào sân trong, để xác nằm trên mặt đất giữa rác và lá cây rụng. Bây giờ họ phải chôn. Chỉ có vợ bác sĩ biết tình trạng khủng khiếp của xác chết, mặt và sọ vỡ vụn vì mấy phát súng, ba lỗ đạn xuyên qua cổ và vùng xương ngực. Bà cũng biết trong cả tòa nhà không có gì dùng để đào huyệt được. Bà đã tìm bên phía họ bị nhốt trong nhà thương điên và chẳng thấy gì ngoài một thanh sắt. Tạm dùng được nhưng không đủ. Và qua các cửa sổ đóng ở hành lang chạy hết chiều dài bên cánh dành riêng cho người bị ngờ lây nhiễm, lom khom bên này bức tường, bà đã thấy các bộ mặt khiếp sợ của những người đang đợi tới lượt họ, giây phút không thể tránh khỏi khi họ phải nói với kẻ khác, Tôi mù, hay nếu họ cố giấu việc đã xảy ra, một vài cử chỉ lóng ngóng có thể tố cáo họ, một cái xoay đầu tìm bóng râm, một cái vấp vô lý vào người ngay trước mắt. Bác sĩ cũng biết tất cả điều này, câu ông vừa nói là một phần mưu mẹo mà cả hai đã dựng lên, để bây giờ vợ ông có thể nói, Chắc mình phải xin mấy người lính ném cho một cái xẻng qua tường. Ý hay đấy, mình thử xem sao, và mọi người đồng ý, riêng cô gái đeo kính đen không tỏ ý gì về vấn đề tìm một cái mai hay cái xẻng, chỉ nghe tiếng cô vừa than thở vừa chảy nước mắt, Lỗi tại tôi, cô thổn thức, và đúng vậy, không ai có thể chối nếu khóc than mang lại cho cô chút an ủi, nhưng cũng đúng nếu trước khi hành động, chúng ta cân nhắc hậu quả, suy nghĩ nghiêm chỉnh, trước hết nghĩ tới hậu quả tức khắc, rồi tới hệ quả ắt hẳn, rồi tới kết quả dám có, rồi tới hậu quả có thể tưởng tượng, chúng ta sẽ không bao giờ đi quá điểm mà sự đắn đo đầu tiên bảo chúng ta ngừng lại. Cái tốt và cái xấu từ lời nói và việc làm của chúng ta cứ tự chia thành tùng phần, giá thử chia ra đồng đều và cân bằng một cách hợp lý, cho tất cả những ngày sắp tới, kể cả những ngày dài vô tận, khi chúng ta không còn ở đây để biết, để tự hào hay xin tha thứ, thật vậy, có nhiều kẻ quả quyết rằng đây là sự bất diệt hay được nói tới, Có thể, nhưng ông này chết và phải chôn. Vì thế bác sĩ và vợ ông đi thương lượng, cô gái đeo kính đen buồn khôn nguôi nói cô đi với họ. Lương tâm cô cắn rứt. Ngay khi họ xuất hiện ở lối vào chính, một tên lính quát, Đứng lại, và như sợ khẩu lệnh này không được để ý, dù rất hùng hồn, gã bắn chỉ thiên. Hoảng sợ, họ lùi vào bóng tối của tiền sảnh, phía sau tấm ván dày của cánh cửa mở. Rồi vợ bác sĩ tiến tới một mình, từ chỗ đang đứng bà có thể thấy cử động của tên lính và nấp kịp lúc nếu cần. Chúng tôi không có gì để chôn người chết, bà nói, chúng tôi cần một cái xẻng. Ở cổng chính, phía bên kia chỗ người mù ngã xuống, một tên lính khác xuất hiện. Hắn là trung sĩ, nhưng không phải viên trung sĩ lúc trước, hắn quát, Bà muốn cái gì, Chúng tôi cần một cái xẻng hay cái mai. Ở đây không có, đi đi. Chúng tôi phải chôn xác chết, Khỏi bận tâm chôn cất làm gì, cứ để đó cho nó rữa, Nếu chúng tôi cứ để xác nằm đó thì không khí sẽ bị ô nhiễm, Thì cứ để nó ô nhiễm, tốt cho bà, Không khí luân chuyển ở đây cũng như ở đó. Lý lẽ của bà thích đáng buộc tên lính suy nghĩ. Hắn đã tới thay viên trung sĩ kia, ông ta đã hóa mù và lập tức bị đưa tới khu doanh trại nhốt bệnh nhân trong quân đội. Khỏi cần nói, không quân và hải quân cũng có căn cứ riêng, nhưng ít rộng lớn và ít quan trọng hơn, quân số của hai lực lượng này ít hơn. Bà ta nói đúng, viên trung sĩ nghĩ, trong tình hình như thế này chắc chắn cẩn thận bao nhiêu cũng không đủ. Như một biện pháp an toàn, hai tên lính trang bị mặt nạ phòng hơi độc đã đổ hai chai amoniac lớn lên vũng máu, hơi xông lên phảng phất vẫn làm bọn lính chảy nước mắt và có cảm giác cay sè nơi cổ họng và mũi chúng. Cuối cùng trung sĩ tuyên bố, Tôi sẽ xem làm được gì, Còn thức ăn của chúng tôi thì sao, vợ bác sĩ hỏi, lợi dụng dịp này để nhắc hắn, Thức ăn vẫn chưa tới, Riêng trong khu chúng tôi có hơn năm mươi người, chúng tôi đói, các ông đưa chúng tôi không đủ, Cung cấp thực phẩm không phải là trách nhiệm của quân đội, Phải có người lo vấn đề này vì Chính phủ cam kết nuôi chúng tôi, Đi vào trong, tôi không muốn thấy ai ở cửa này, Còn cái xẻng thì sao, vợ bác sĩ khư khư, nhưng viên trung sĩ đã bỏ đi. Giữa buổi sáng một giọng vang lên trên loa phóng thanh trong phòng, “Chú ý, chú ý,” những người bị nhốt hớn hở, họ nghĩ đây là thông báo về thực phẩm của họ, nhưng không, đó là về cái xẻng, Ai đó nên đi lấy nó, nhưng đừng đi một nhóm, chỉ một người ra thôi, Tôi đi, vì tôi đã nói chuyện với họ, vợ bác sĩ nói. Lúc bà đi qua cánh cửa ở lối vào chính, bà thấy cái xẻng. Xét từ vị trí và khoảng cách chỗ nó rơi xuống, gần cổng hơn các bậc thang, chắc nó đã được ném qua hàng rào, Mình đừng quên là mình đang bị cho là mù, vợ bác sĩ nghĩ, Ở đâu, bà hỏi, Đi xuống thang tôi sẽ hướng dẫn bà, trung sĩ đáp, tốt lắm, bây giờ cứ đi theo hướng đó, như vậy, như vậy, ngừng lại, qua bên phải một chút, không, qua bên trái, ít thôi, ít thôi, bây giờ thẳng tới, cứ đi tới, bà sẽ đụng nó, đồ cứt, tôi đã bảo bà đừng đổi hướng, yên, yên, bà lại sắp tới, sắp rồi, đúng, bây giờ quay nửa vòng rồi từ đó tôi sẽ chỉ cho bà, tôi không muốn bà đi vòng vòng rồi ra tới cổng, Anh lo phải không, bà nghĩ, từ đây tôi sẽ đi thẳng về cửa, vả lại có sao đâu, ngay cả nếu anh nghĩ là tôi không mù, tôi cần gì, anh đâu có vào đây bắt tôi. Bà vác xẻng lên vai như phu đào huyệt trên đường đi làm, rồi tiến về phía cửa mà không chút ngập ngừng, Ông thấy không, trung sĩ, một tên lính thốt lên, ông đâu có nghĩ bà ta mù. Người mù học cách tìm đường nhanh, viên trung sĩ tự tin giải thích.
Đào huyệt là việc nặng nhọc. Đất cứng, bị giậm chặt, ngay bên dưới có rễ cây. Gã lái tắc xi, hai viên cảnh sát và người đàn ông mù đầu tiên thay phiên nhau đào. Đối phó với cái chết, tự nhiên lòng thù oán mất tác dụng và hết độc hại, thiên hạ nói đúng là các mối thù cũ khó phai, và bằng chứng về chuyện này có rất nhiều trong văn chương và cuộc sống, nhưng cảm giác ở đây tận trong thâm tâm là không thù ghét và cũng chẳng cũ, vì làm sao so sánh việc ăn cắp xe với đời một kẻ ăn cắp nó, và nhất là với tình trạng khốn khổ của xác hắn, vì ta không cần mắt cũng biết khuôn mặt này không có mũi và miệng. Họ không thể đào sâu chín tấc. Nếu người chết mập, bụng hắn ta sẽ lồi lên mặt đất, nhưng gã trộm gầy ốm, đúng là da bọc xương, còn gầy hơn sau mấy ngày nhịn đói vừa qua, huyệt đủ lớn cho hai cái xác to bằng gã. Không có lời cầu nguyện cho người chết. Mình có thể đặt cây thánh giá ở đó, cô gái đeo kính đen nhắc họ, cô nói vì lòng ăn năn, nhưng mọi người ở đó đều biết khi còn sống kẻ quá cố chưa bao giờ nghĩ tới Thượng đế hay tôn giáo, tốt nhất là đừng nói gì, vả lại, nếu có một thái độ hợp lý nào khác trước sự chết thì hãy nhớ rằng làm một cây thánh giá khó hơn ta nghĩ rất nhiều, chưa kể nó sẽ chẳng đứng lâu trước đám người mù này, họ đâu có thấy họ đang giẫm lên chỗ nào. Họ quay lại phòng. Tại những nơi nhộn nhịp hơn, miễn là đừng ở ngoài trời hoàn toàn, như ngoài sân, người mù không còn bị mất hướng, một tay đưa ra phía trước và mấy ngón tay cử động như râu côn trùng, họ có thể tìm thấy đường khắp nơi, thậm chí một người mù có năng khiếu hơn sẽ sớm phát triển cái gọi là thị lực trước mặt. Như vợ bác sĩ chẳng hạn, bà ta rất tài xoay xở đi loanh quanh và tự định hướng qua mê hồn trận đúng nghĩa của các phòng ốc, ngóc ngách và hành lang, bà ta biết chính xác khi nào quẹo, bà có thế ngừng lại trước một cánh cửa và mở nó không chút do dự, bà không cần đếm giường trước khi tới giường mình. Lúc này bà ngồi trên giường của chồng, bà đang nói chuyện với ông, thấp giọng như mọi lần, ta có thể thấy họ là người có học, và họ luôn luôn có chuyện để nói với nhau, họ không như cặp vợ chồng kia, người đàn ông mù đầu tiên và vợ ông ta, sau giây phút xúc động được đoàn tụ lúc đầu, họ hiếm khi nói, rất có thể, nỗi bất hạnh hiện giờ nặng hơn tình yêu trong quá khứ của họ, thời gian trôi qua họ sẽ quen với hoàn cảnh này. Kẻ duy nhất luôn luôn than đói là đứa bé mắt lác, mặt dù cô gái đeo kính đen hầu như đã lấy thức ăn của cô cho nó. Nhiều giờ đã trôi qua từ khi nó hỏi về mẹ nó lần cuối, nhưng chắc chắn nó sẽ lại bắt đầu nhớ bà sau khi ăn, khi cơ thể nó thấy không bị lòng ích kỷ tàn nhẫn xuất phát từ nhu cầu tự cứu đơn giản nhưng thúc bách đòi hỏi nữa. Vì chuyện xảy ra hồi sáng sớm, hay vì các lý do ngoài phạm vi hiểu biết của chúng ta, sự thật đáng buồn là không có thùng thức ăn nào được giao vào giờ ăn sáng. Gần tới bữa ăn trưa, sắp một giờ theo đồng hồ vợ bác sĩ vừa mới lén xem, vì thế chả có gì đáng ngạc nhiên khi dịch vị cồn cào của họ đã khiến cho một số người mù bị nhốt, bên cánh này cũng như cánh kia, đi ra tiền sảnh chờ thức ăn đến, với hai lý do chính đáng, lý do chung là vì đối với một số người, bằng cách này họ sẽ rút ngắn thời gian đói, lý do riêng, như mọi người đều biết, là vì đối với một số khác thì ai tới trước ăn trước. Nói chung, có khoảng mười người mù bị nhốt lắng nghe tiếng mở cổng ngoài, đợi nghe bước chân của bọn lính giao các thùng thực phẩm trời ban đó. Về phần người bị lây nhốt bên cánh trái, vì sợ bị mù cấp tính nếu tiếp xúc gần với người mù đang đợi trong tiền sảnh, họ không dám ra, nhưng vài kẻ trong bọn họ hé nhìn qua khe cửa, nôn nóng đợi tới lượt họ. Thời gian trôi qua. Mệt mỏi vì chờ đợi, một số người mù ngồi xuống sàn, lát sau hai, ba người quay về phòng. Không lâu sau, ngoài công có tiếng kim khí kẽo kẹt không thể nhầm. Người mù phấn khởi xô đầy nhau, bắt đầu đi về hướng họ nghĩ là cánh cửa, xét theo tiếng động bên ngoài, nhưng bỗng mất tự chủ vì cảm giác bất an mơ hồ mà họ không kịp giải thích hay hiểu rõ, họ dừng lại rồi hỗn loạn rút lui, trong khi đó bước chân của bọn lính mang thức ăn và đám hộ tống trang bị vũ khí đã nghe khá rõ.
Vẫn còn bàng hoàng vì thảm kịch của đêm trước, bọn lính giao các thùng thực phẩm đã thỏa thuận là sẽ không để thùng gần cửa dẫn tới các cánh nhà như trước, chúng chỉ vứt thùng vào tiền sảnh rồi rút lui. Để họ tự lo liệu. Ánh sáng chói chang bên ngoài đột ngột chuyển sang bóng tối trong tiền sảnh thoạt đầu làm chúng không thấy nhóm người mù bị nhốt. Nhưng rồi chúng nhận ngay ra họ. Rú lên vì kinh hoảng, chúng buông thùng xuống đất rồi bỏ chạy thẳng ra cửa như lũ điên. Hai tên lính hộ tống đang đợi bên ngoài đã phản ứng một cách đáng nể trước hiểm nguy. Không chế nỗi sợ hãi chính đáng của chúng, chỉ trời biết và hiểu tại sao, chúng tiến tới ngưỡng cửa và xả đạn. Những người mù bị nhốt ngã đè lên nhau, và khi ngã, thân thể họ vẫn tiếp tục bị bắn thủng lỗ chỗ thật phí phạm đạn dược, tất cả xảy ra chậm một cách khó tin, một thân người, rồi một người nữa, dường như họ không ngừng ngã xuống, như đôi khi ta thấy trên phim hay trên truyền hình. Nếu chúng ta còn ở vào thời một người lính phải giải thích số đạn bắn ra, họ sẽ thề trên lá cờ rằng họ đã tự vệ chính đáng, cũng như để bảo vệ các chiến hữu không mang vũ khí trong một sứ mệnh nhân đạo và bất chợt thấy mình bị một nhóm người mù đe dọa và áp đảo. Điên cuồng bỏ chạy, họ rút ra cổng, được bọn lính tuần tra loạng quạng chĩa súng giữa các chấn song bắn yểm trợ như thể những người mù bị nhốt còn sống sót sắp sửa tấn công để phục thù. Mặt tái xanh, một tên trong bọn lính đã nổ súng hốt hoảng nói, Bất cứ giá nào tao cũng sẽ không vào trong đó. Chẳng mấy chốc, trong cùng ngày, khi chiều xuống, vào giờ đổi gác, hắn trở thành một người mù nữa giữa những người mù khác, may là hắn trong quân đội, nếu không hắn sẽ vào đó với những người mù bị nhốt, làm bạn với những người đã bị hắn bắn chết, và có trời biết họ sẽ làm gì hắn. Lời bình phẩm duy nhất của viên trung sĩ là, Tốt hơn nên để tụi nó chết đói, chó chết, hết chuyện. Như chúng ta biết, thiên hạ thường nói và nghĩ tương tự, một cách vui vẻ, nhưng chút lòng quan tâm nhân đạo quý báu còn sót lại khiến hắn lập tức nói thêm, Từ nay chúng ta sẽ để mấy cái thùng ở nửa đường, cho họ tới kiếm, ta sẽ canh chừng họ, và ta sẽ bắn nếu có hành vi đáng ngờ nhỏ nhặt nào. Hắn đi tới đài chỉ huy, bật micro, và hết sức chăm chút từng lời nói, moi lại mấy câu hắn nhớ đã nghe trong những dịp hình như tương tự, hắn tuyên bố, Quân đội tiếc là đã phải dùng vũ khí trấn áp hành vi dấy loạn gây nên tình thế hiểm nghèo vừa qua, vì vậy quân đội không có lỗi trực tiếp hay gián tiếp, và báo cho quý vị biết là từ nay người bên trong sẽ đi lấy thực phẩm phía ngoài tòa nhà, và sẽ nhận lãnh hậu quả nếu có bất kỳ ý định lặp lại hành vi quấy rối nào xảy ra như vừa rồi và tối hôm qua. Hắn ngập ngừng, không rõ nên kết thúc ra sao, hắn đã quên mình nói gì, rõ ràng hắn đã nói, nhưng chỉ có thể nhắc lại, Chúng tôi không có lỗi, chúng tôi không có lỗi.
Trong tòa nhà, tiếng súng nổ điếc tai vang dội trong khoảng không gian chật kín của tiền sảnh, gây hoảng loạn cực kỳ. Thoạt tiên người ta nghĩ bọn lính sắp xộc vào các phòng và bắn bất kỳ cái gì trong tầm mắt, Chính phủ đã thay đổi chiến thuật, định thanh toán toàn bộ người bị nhốt, một số bò dưới gầm giường, kẻ khác kinh hoảng bất động, một số có thể đã nghĩ như vậy còn hơn, chết khỏe còn hơn lay lắt, nếu phải đi thì đi cho nhanh. Kẻ đầu tiên phản ứng là nhóm bị lây. Họ đã chạy trốn ngay khi tiếng súng nổ ra, nhưng rồi sự yên lặng khuyến khích họ quay lại, một lần nữa họ đi ra phía cửa dẫn tới tiền sảnh. Họ thấy thi thể nằm chất đống, máu chảy ngoằn ngoèo loang từ từ trên sàn gạch như một sinh vật sống, rồi họ thấy các thùng thực phẩm. Cái đói thúc đầy họ, đồ ăn thức uống rất đáng thèm khát nằm ngay đó, thật ra là cho người mù, theo quy định, thực phẩm của họ chưa tới, nhưng cần gì quy định, chẳng ai thấy họ, ăn cỗ đi trước, như cổ nhân đã liên tục nhắc nhở chúng ta qua nhiều thời đại, và cổ nhân biết mấy chuyện này. Tuy nhiên, cái đói của họ chỉ có sức đưa họ tiến tới ba bước, lý trí đã can thiệp và cảnh cáo họ rằng kẻ nào đủ liều lĩnh tiến tới thì hiểm nguy đang rình rập trong các thi thể không còn sự sống đó, nhất là trong vũng máu ấy, nào ai biết hơi gì, xạ khí gì, chướng khí độc hại gì đã bốc lên từ các vết thương há miệng của mấy xác chết. Họ chết rồi, họ không thể gây nguy hại nữa, có kẻ nhận xét, hắn định trấn an mình và kẻ khác, nhưng lời hắn nói làm sự việc tệ hơn, đúng, mấy người mù này đã chết, họ không cử động, thấy chưa, chẳng nhúc nhích cũng chẳng thở, nhưng nào ai biết bệnh mù trắng này không là một chứng bệnh tinh thần nào đó, và nếu chúng ta giả thử điều này là đúng, thì linh hồn của những người mù tử vong đó chưa bao giờ tự do như lúc này, nó ra khỏi cơ thể họ, và do đó tự do làm bất kỳ điều gì nó thích, nhất là làm chuyện tai ác, mà như mọi người đều biết luôn luôn là chuyện dễ làm nhất. Nhưng các thùng thực phẩm đứng lồ lộ ở đó, lập tức lôi cuốn sự chú ý của họ, vì đòi hỏi của dạ dày, họ chẳng để ý gì khác dù đó là lợi ích của họ. Một trong những thùng thực phẩm rỉ ra một chất lỏng trắng từ từ lan tới vũng máu, nhìn rất giống sữa, một màu không thể lầm. Can đảm hơn, hay chỉ là nghiệp chướng, sự khác biệt này thường không dễ nhận, hai người trong bọn bị lây bước tới, và khi họ sắp thò bàn tay tham lam lên thùng đầu tiên thì một nhóm người mù xuất hiện ở khuôn cửa qua khu bên kia. Trí tưởng tượng có thể chơi trò ma mãnh, nhất là trong tình thế thiếu lành mạnh như lúc ấy, hai gã đi hôi của này như thể đã thấy người chết bất thần từ mặt đất đứng lên, vẫn mù như trước, hẳn nhiên, nhưng nguy hiểm hơn nhiều, vì chắc chắn họ chất chứa đầy ý muốn trả thù. Họ thận trọng lùi lại trong im lặng tới lối vào khu của họ, có lẽ người mù đang bắt đầu lo cho các xác chết như lòng nhân hậu và tôn kính đòi hỏi, hay nếu không, họ có thể để lại một thùng mà không biết, dù là thùng nhỏ, thật ra ở đây người bị lây không nhiều lắm, có lẽ giải pháp tốt nhất là xin họ, Làm ơn thương xót chúng tôi, ít nhất để lại một thùng nhỏ cho chúng tôi, sau chuyện xảy ra có lẽ hôm nay người ta sẽ không giao thêm thức ăn. Người mù di chuyển như ta vẫn biết, mò mẫm, vấp váp, kéo lết chân, nhưng như có tổ chức, họ biết cách phân chia công việc một cách hiệu quả, một số giẫm tung tóe sữa và máu nhớp nhúa, họ lập tức lùi lại và khiêng các xác chết ra sân, kẻ khác lo tám cái thùng đã được bọn lính vứt ở đó, từng thùng từng thùng. Trong số người mù bị nhốt có một bà coi bộ có mặt mọi lúc mọi nơi, giúp khiêng vác, bà ta hành động như thể đang hướng dẫn bọn đàn ông, một việc rõ ràng là bất khả đối với một bà mù, và vô tình hay cố ý, hơn một lần bà ta quay đầu về khu nhốt người bị lây, như thể bà ta có thể thấy họ hay cảm thấy sự hiện diện của họ. Trong chốc lát, tiền sảnh trống trơn, chẳng còn dấu vết nào trừ vệt máu lớn, và một vệt trắng nhỏ bên cạnh, từ sữa tràn ra, ngoài ra ngang dọc chỉ có các dấu chân đỏ hay ướt. Cam chịu, bọn người bị lây đóng cửa và đi tìm bánh vụn, họ nhụt chí tới nỗi có người suýt buột miệng, và điều này cho thấy họ tuyệt vọng ra sao, Nếu rốt cuộc mình sẽ phải mù, nếu số phận của mình như vậy, thì bây giờ dọn qua bên kia cho xong, ở đó ít nhất mình có cái gì để ăn, Có lẽ tụi lính sẽ mang phần ăn của mình, kẻ khác gợi ý, Anh có bao giờ ở trong quân ngũ chưa, một người khác hỏi anh ta, Chưa, Đúng như tôi nghĩ.
Biết rằng người chết thuộc về cả hai phòng, những người trong phòng thứ nhất và thứ hai cùng họp lại để quyết định họ nên ăn trước rồi chôn xác chết, hay ngược lại. Hình như không người nào muốn biết là ai đã chết. Năm xác trong số đó đã ở trong phòng thứ hai, khó nói họ đã biết nhau, hay họ không biết nhau, hay họ có thời giờ và ý định tự giới thiệu và thổ lộ tâm can. Vợ bác sĩ không nhớ đã gặp họ khi họ đến. Bốn xác còn lại, đúng, bà nhận ra mấy xác này, họ đã ngủ với bà, trong chừng mực nào đó, dưới cùng mái nhà, mặc dù một người bà chỉ biết như thế và làm sao bà có thể biết hơn, một kẻ tự trọng không đi loanh quanh thảo luận chuyện riêng tư với người mới gặp, như chuyện ông ta đã làm tình với một cô gái đeo kính đen trong khách sạn, còn về phần cô, nếu chúng ta nói về cô ấy, cô không biết ông ta bị nhốt ở đây và cô ở ngay bên cạnh người đàn ông vốn là nguyên nhân làm cô thấy mọi vật màu trắng. Anh lái tắc xi và hai viên cảnh sát là những người tử vong kia, ba anh chàng tráng kiện có thể tự lo lấy thân, nghề nghiệp của họ giúp nhau bằng nhiều cách, rồi cuối cùng họ nằm đó, bị đốn ngã một cách tàn nhẫn khi còn sung sức và đang đợi kẻ khác quyết định số phận họ. Họ sẽ phải đợi cho tới khi những kẻ sống sót ăn xong, không vì tính ích kỷ thông thường của người sống, mà vì có kẻ nhạy bén nhớ ra rằng chôn chín cái xác trong đất cứng mà chỉ có một cái xẻng là một việc ít nhất tới giờ ăn tối mới xong. Và khó có thể chấp nhận rằng những người tình nguyện được trời phú cho lòng tốt sẽ làm việc trong khi kẻ khác nhét đầy bao tử, vì vậy họ quyết định để mấy cái xác lại sau. Thực phẩm giao thành từng phần cá nhân, do đó dễ chia, của ông, của bà, tới khi hết sạch. Nhưng sự lo lắng của một số người mù thiếu đầu óc công bằng lại làm phức tạp một việc dễ hiểu trong tình huống bình thường, và mặc dù phán xét bình tĩnh và vô tư sẽ khiến chúng ta thấy rằng sự quá quắt cũng có một lý lẽ nào đó, thí dụ, ta chỉ cần nhớ rằng ngay từ đầu chẳng ai biết sẽ có đủ thực phẩm cho mọi người. Thật vậy, rõ ràng không dễ đếm người mù hay phân phát khẩu phần mà không có con mắt có thể nhìn cả khẩu phần và con người. Hơn nữa, vài người mù trong phòng thứ hai thiếu thành thật một cách đáng trách, cố gây ấn tượng họ đông hơn thực tế. Như thường lệ, lúc này sự hiện diện của vợ bác sĩ cho thấy là hữu ích. Vài lời nói đúng lúc luôn luôn giải quyết được vấn đề mà một bài diễn thuyết tràng giang đại hải chỉ làm cho tồi tệ thêm. Không ít kẻ có ý xấu và ngang bướng chẳng những cố thử, mà quả thực đã thành công trong việc nhận gấp đôi khẩu phần. Vợ bác sĩ biết hành vi bất lương này, nhưng nghĩ tốt hơn đừng nói gì. Bà không dám nghĩ tới hậu quả sau đó nếu bị khám phá là bà không mù, khi ấy nhẹ nhất bà phải chịu sự sai khiến của mọi người, tệ nhất là bà có thể trở thành nô lệ cho vài kẻ trong số họ. Ý kiến được đưa ra từ đầu là nên có người gánh trách nhiệm cho mỗi phòng để giải quyết các khó khăn này khác biết đâu lại có ích? Nhưng than ôi, nghiêm trọng hơn, kẻ chịu trách nhiệm có quyền hạn mỏng manh không thể. Thôi cãi, bấp bênh không thể chối cãi, bị đặt vấn đề bất kỳ lúc nào không thể chối cãi, và với điều kiện quyền này phải được thi hành một cách minh bạch vì lợi ích của mọi người, và phải được đa số thừa nhận. Nếu không làm được điều ấy, bà nghĩ, chúng ta rốt cuộc sẽ giết nhau trong này. Bà tự hứa sẽ thảo luận mấy vấn đề tế nhị ấy với chồng rồi tiếp tục chia khẩu phần.
Vài kẻ vì biếng nhác, kẻ khác vì dễ đau dạ dày, không có ý đi đào huyệt ngay sau khi ăn. Vì nghề nghiệp của ông, bác sĩ cảm thấy có trách nhiệm hơn kẻ khác, và khi ông nói mà không hăng hái lắm, Nào, chúng ta đi chôn các xác chết, không có một người nào tình nguyện. Duỗi dài trên giường, người mù chỉ muốn được yên để tiêu hóa thức ăn, vài kẻ ngủ ngay, chả có gì ngạc nhiên, sau kinh nghiệm khủng khiếp họ đã trải qua, cơ thể, ngay cả cơ thể thiếu dinh dưỡng, đã tự buông thả cho công việc tiêu hóa chậm chạp. Lát sau, khi trời tối, vì ánh nắng tàn nhanh, các ngọn đèn mờ có vẻ sáng hơn, đồng thời cho thấy dù yếu chúng vẫn phục vụ được mục đích nhỏ nhoi của chúng, bác sĩ và vợ thuyết phục được hai ông cùng phòng đi với họ ra sân, dù chỉ để chia đều công việc phải làm và tách các xác chết đã cứng, sau khi đã quyết định mỗi phòng sẽ chôn người chết của mình. Những người mù này có một lợi thế có thể gọi là ảo giác của ánh sáng. Thật vậy, đối với họ chả có gì khác biệt giữa ngày và đêm, ánh rạng đông hay nhá nhem chiều tà, giờ khắc tĩnh lặng của sớm mai hay tiếng ầm ĩ rộn ràng lúc đúng ngọ, những người mù này bị vây phủ vĩnh viễn trong sắc trắng chói lòa, như mặt trời rọi qua sương mù. Đối với người mù loại này, mù lòa không có nghĩa là lao vào bóng đen tầm thường, mà là sống trong vầng hào quang rực rỡ. Khi bác sĩ buột miệng nói họ sẽ phân loại xác chết, người đàn ông mù đầu tiên, một trong hai người đồng ý giúp ông, muốn biết làm cách nào có thể nhận dạng họ, một câu hỏi hợp lý của người mù khiến bác sĩ lúng túng. Lần này vợ ông nghĩ đừng nên dại dột giúp ông để khỏi bị lộ. Bác sĩ thoát khỏi tình thế khó khăn một cách lịch sự bằng phương pháp thú nhận tận gốc, đó là tự nhận lỗi, ông nói bằng giọng của một người tự cười mình, Người ta quen có cặp mắt tới nỗi nghĩ mình có thể dùng nó khi nó chẳng còn dùng được nữa, thật vậy, chúng ta chỉ biết ở đây có bốn người của phòng mình, anh lái tắc xi, hai anh cảnh sát, và một người nữa đã ở chung với mình, vì thế cách làm là chọn ngẫu nhiên bốn xác, trân trọng chôn họ, bằng cách này chúng ta làm tròn bổn phận của mình. Người đàn ông mù đầu tiên đồng ý, ông kia cũng vậy, và một lần nữa, họ thay phiên nhau bắt đầu đào huyệt. Hai người phụ việc này sẽ không bao giờ biết, họ mù tịt như vậy mà, rằng các xác chết được chôn đúng là những người họ đã nói tới, hoàn toàn đúng, chúng ta cũng chả cần nhắc lại việc bác sĩ làm, như tình cờ, tay ông được tay vợ hướng dẫn, bà nắm một chân hay cánh tay, và ông chỉ phải nói, Xác này. Khi họ đã chôn xong hai xác, rốt cuộc từ trong phòng hiện ra ba ông tỏ ý giúp, nếu có ai bảo họ là đã khuya lắm rồi thì chắc họ sẽ ít tự nguyện hơn. Về mặt tâm lý, ngay cả khi người ta mù, chúng ta phải thừa nhận rằng đào huyệt lúc trời sáng rất khác với lúc sau khi mặt trời lặn. Khi họ trở về phòng, toát mô hôi, lấm đất, mùi da thịt thối rữa buồn nôn vẫn còn trong mũi họ, giọng trên loa phóng thanh nhắc lại các hướng dẫn thông lệ. Không một lời ám chỉ sự kiện đã xảy ra, không một lời nhắc tới súng nổ hay tử vong vì bắn thẳng. Những lời cảnh cáo như, Ra khỏi tòa nhà mà không được phép sẽ chết tức khắc, hay Những người bên trong sẽ chôn xác trong sân mà không cần bất kỳ lễ nghi thủ tục nào, giờ đây, nhờ kinh nghiệm cay đắng của cuộc đời, chúa tể của mọi cách ứng xử, cho thấy mấy câu cảnh cáo này là thật, trong khi lời thông báo hứa hẹn phát thực phẩm ba lần mỗi ngày hình như mỉa mai một cách lố bịch, hay tệ hơn nữa, một cách khinh bỉ. Khi tiếng nói lắng xuống, vì phải biết mọi ngóc ngách trong này, bác sĩ tự đi tới cửa phòng bên kia để báo cho những người bên trong, Chúng tôi đã chôn người chết của chúng tôi, Ôi dào, nếu ông đã chôn thì chôn hết luôn, một giọng đàn ông bên trong trả lời, Thỏa thuận là mỗi phòng sẽ chôn người chết của phòng mình, chúng tôi đã đếm bốn người và chôn họ rồi, Được, ngày mai bên này chúng tôi sẽ lo, một giọng nam khác nói, rồi đổi giọng, ông ta hỏi, Thức ăn không giao thêm à, Không, bác sĩ đáp, Nhưng loa phóng thanh nói ba lần mỗi ngày mà, Tôi không nghĩ họ luôn giữ lời hứa, Vậy thì chúng ta sẽ phải chia khẩu phần thực phẩm được giao, một giọng nữ nói, ừ phải, nếu các ông bà muốn thì ngày mai chúng ta có thể bàn, Đồng ý, người đàn bà nói. Bác sĩ đã sắp bỏ đi thì nghe giọng người đàn ông thứ nhất nói, Ai ra lệnh ở đây, ông ngừng lại, mong được nghe câu trả lời, và câu trả lời cũng đến từ giọng nữ đó, Nếu chúng ta không nghiêm chỉnh tự tổ chức thì đói và sợ sẽ nổi lên ở đây, thật đáng xâu hổ là mình đã không đi với họ để chôn người chết, Tại sao bà không đi chôn vì bà thông minh và tự tin quá mà, Tôi không thể làm một mình nhưng tôi sẵn sàng phụ, Cãi nhau vô ích, một giọng nam khác xen vào, sáng mai chúng ta sẽ thu xếp việc này trước tiên. Bác sĩ thở dài, cuộc sống chung sẽ khó khăn. Khi quay về phòng mình, ông cảm thấy mót đi tiểu. Ở điểm ông đang đứng, không chắc ông có thể tìm thấy phòng vệ sinh, nhưng ông quyết định thử. Ông hy vọng ít ra có người nhớ để ở đó giấy vệ sinh được giao cùng với thùng thực phẩm. Trên đường đi ông lạc hai lần và khổ sở vì bắt đầu cảm thấy tuyệt vọng, cuối cùng, đúng lúc ông hết nhịn được nữa, ông có thể kéo quần xuống và cúi trên hố xí. Mùi hôi làm ông nghẹt thở.
Ông cảm thấy đã giẫm lên cái gì nhão, phân của ai đã ra ngoài lỗ hố xí hay họ đã quyết định đi tiêu mà chả cần nghĩ tới kẻ khác. Ông thử tưởng tượng chỗ này thế nào, đối với ông nó trắng toát, chói sáng, rực rỡ, ông chẳng có cách nào biết vách tường và nền nhà màu trắng hay không, và ông đi đến kết luận vô lý là ánh sáng và sắc trắng ở đó đang bốc mùi hôi khủng khiếp. Mình sẽ phát điên vì kinh hoảng, ông nghĩ. Rồi ông cố chùi sạch mình nhưng không có giấy. Ông sờ tay lên bức tường phía sau, hy vọng tìm thấy cuộn giấy vệ sinh hay cây đinh móc mấy mẩu giây cũ nếu không có gì khá hơn. Chẳng có gì. Ông cảm thấy khổ sở, chán nản, bất hạnh hơn là ông có thể chịu đựng, chen chúc trong đó, bảo vệ cái quần đang quét lên nền nhà ghê tởm, mù, mù, mù, và không kìm chế được mình, ông bắt đầu lặng lẽ khóc. Dò dẫm, ông đi vài bước và tông vào vách đối diện. Ông đưa một tay ra, rồi tay kia, cuối cùng tìm thấy cửa. Ông có thể nghe bước chân ai kéo lê, chắc cũng đang tìm phòng vệ sinh, và cứ vấp, Nó ở chỗ quái nào thế này? người đó đang hững hờ lẩm bẩm, như thể trong thâm tâm ông ta không thiết tha tìm. Ông ta đi sát phòng vệ sinh mà không nhận ra có người ở đó, nhưng chằng hề gì, tình thế không thoái hóa tới mức khiếm nhã, nếu có thể gọi như thế, một người bị bắt gặp trong hoàn cảnh lúng túng, quần áo xốc xếch, tới phút chót, vì cảm giác ngượng nghịu bối rối, bác sĩ đã kéo quần lên, rồi ông kéo xuống, khi ông nghĩ chỉ còn một mình ông, nhưng không kịp, ông biết ông bị bẩn, bẩn hơn ông nhớ những lần đã bẩn trong đời. Có nhiều cách đế trở thành con thú, ông nghĩ, đây chỉ là cách đầu tiên. Tuy nhiên, thật ra ông không thể than vãn, ông vẫn còn có người không nề hà lau ông sạch sẽ.
Nằm trên giường, những người mù bị nhốt đợi giấc ngủ xoa dịu nỗi khốn khổ của họ. Kín đáo, như sợ nguy cơ có kẻ thấy cảnh khốn khổ này, vợ bác sĩ đã hết sức giúp chồng tự lau chùi sạch sẽ. Bây giờ là sự im lặng u sầu thường thấy trong bệnh viện khi bệnh nhân đã ngủ, và đau đớn ngay cả khi họ ngủ. Ngồi thẳng và tỉnh táo, vợ bác sĩ nhìn dãy giường, các hình dáng mờ tối, vẻ xanh xao bất động của một khuôn mặt, một cánh tay cử động trong mơ. Bà tự hỏi bà sẽ mù như họ chăng, lý do không thể giải thích nào cho tới nay đã cứu bà không bị mù. Với một cử chỉ mệt mỏi, bà đưa tay vuốt tóc ra sau đầu, và nghĩ, Chúng ta sẽ hôi tới tận mây xanh. Lúc đó có tiếng thở dài, tiếng rên, tiếng kêu nhỏ, thoạt tiên bị bóp nghẽn, những âm thanh dường như là tiếng nói, chắc là lời nói, nhưng mất ý nghĩa giữa sự dồn dập đã biến chúng thành tiếng hét và ậm ực, rồi cuối cùng thành tiếng thở rống nặng nề. Cuối phòng có tiếng người bực dọc. Đồ con heo, tụi nó là đồ con heo. Đây không phải là heo, chí là một ông mù và một bà mù có thể chẳng biết gì về nhau hơn là thế này.
Một cái bụng trống rỗng thức dậy sớm. Vài người mù bị nhốt mở mắt khi trời chưa sáng, trong hoàn cảnh của họ chẳng phải vì đói, mà vì đồng hồ sinh học của họ, hoặc bất kỳ ta gọi nó là gì, không còn chạy đúng nữa, họ tưởng đó là ánh nắng, rồi nghĩ, Mình ngủ quá giấc, và nhận ra ngay rằng họ lầm, các bạn cùng bị nhốt với họ đang ngáy như kéo gỗ, không lầm được. Bây giờ chúng ta biết qua sách vở, và hơn nữa qua kinh nghiệm bản thân, bất kỳ ai có khuynh hướng thức sớm hay buộc phải dậy sớm vì cần thiết đều thấy không chịu nổi khi kẻ khác cứ tiếp tục ngủ ngon, và họ có lý do chính đáng trong hoàn cảnh chúng ta đang nói, vì một người mù đang ngủ rất khác với một người mù đã mở mắt chả vì mục đích gì. Nhận xét về bản chất tâm lý này, sự khác biệt tế nhị của nó không nhất thiết thích hợp nếu xét theo mức độ bất thường của tai biến mà câu chuyện của chúng ta đang cố thuật lại, chỉ dùng để giải thích vì sao tất cả người mù bị nhốt thức dậy sớm, một số như đã nói từ đầu thức dậy vì bao tử trống rỗng cồn cào cần thức ăn, kẻ khác bị lôi khỏi giấc ngủ vì sự sốt ruột bồn chồn của bọn dậy sớm không do dự làm ồn hơn cần thiết và hơn mức có thể tha thứ khi người ta sống chung trong doanh trại hay phòng ốc. Ở đây không chỉ có người chín chắn và lịch sự, mà có cả nhũng kẻ thật thô bỉ muốn khuây khỏa mỗi buổi sáng bằng cách khạc đờm và xì hơi không thèm để ý tới người hiện diện, và nếu nói sự thật, họ cư xử tệ hại như thế suốt ngày, làm cho bầu khí quyển càng nặng, và chả làm sao được, chỗ mở thoáng duy nhất là cửa ra vào, còn các cửa sổ quá cao không với tới được.
Nằm bên chồng, thật sát vì giường hẹp, nhưng cũng vì tự ý, họ mất mát gì giữa đêm để giữ lịch sự, để không cư xử như những kẻ mà có người gọi là đồ con heo, vợ bác sĩ nhìn đồng hồ của bà. Hai giờ hai mươi ba. Bà nhìn kỹ hơn, thấy kim giây đứng yên. Bà đã quên lên dây chiếc đồng hồ khốn nạn, hay bà khốn khổ khốn nạn, vì ngay cả việc đơn giản này bà cũng chẳng nhớ làm chỉ sau ba ngày cách ly. Không kìm được mình, bà bật khóc tức tưởi, như thể tai họa tệ hại nhất bỗng xảy đến cho bà. Bác sĩ nghĩ vợ ông hóa mù, điều ông rất sợ rốt cuộc xảy ra, và cuống lên định hỏi, Em bị mù à, nhưng vào phút chót ông nghe tiếng bà thì thào, Không, không, không phải, không phải, rồi tiếng thì thầm kéo dài, hầu như không nghe thấy, hai cái đầu của họ chui dưới chăn, Em thật ngốc, em quen lên dây đồng hồ, rồi bà tiếp tục nức nở, không dỗ được. Thức giấc trên giường bên kia lối đi, cô gái đeo kính đen đi về phía tiếng nức nở, hai tay đưa ra, Bà buồn, cần tôi giúp gì không, cô vừa hỏi vừa tiến tới, và chạm tay vào hai thân người trên giường. Tính chín chắn đòi hỏi cô rút tay về lập tức, và chắc chắn là bộ não của cô ban ra lệnh đó, nhưng tay cô không tuân theo, nó chỉ chạm tinh tế hơn, dịu dàng vuốt ve tấm chăn dày và ấm, Cần tôi giúp gì không, cô gái lại hỏi một lần nữa, và lúc này cô đã bỏ tay ra, giơ lên tới khi nó lạc mất trong sắc trắng vô sinh, vô vọng đó. Vẫn nức nở, vợ bác sĩ ra khỏi giường, ôm lấy cô gái và nói, Không có gì, tôi chỉ bỗng dưng thấy buồn, Nếu bà vững chãi như thế mà ngã lòng thì thật không còn gì cứu vãn chúng ta, cô gái phàn nàn. Bình tĩnh hơn, vợ bác sĩ nghĩ, nhìn thẳng cô, Dấu hiệu viêm màng kết đã gần khỏi, thật đáng tiếc mình không thể nói cho cô ta biết, cô ta sẽ vui lòng. Ừ, cô ta có thể sẽ vui lòng, dù sự vui lòng đó là vô lý, không chỉ vì cô ta bị mù, mà vì tất cả mọi người ở đây cũng mù, có đôi mắt sáng đẹp thế này thì được tích sự gì cho cô nếu chẳng ai thấy chúng. Vợ bác sĩ nói, Chúng ta đều có lúc yếu lòng, chúng ta còn có thể khóc là còn tốt, nước mắt thường là sự cứu rỗi của mình, có những lúc chúng ta sẽ chết nếu mình không khóc, Chẳng có gì cứu vãn mình, cô gái đeo kính đen nhắc lại, Nào ai biết, chứng mù này không như bất kỳ cái gì, nó có thể bỗng dưng biến mất như khi nó đến, Khi ấy quá trễ cho những ai đã chết, Chúng ta đều phải chết, Nhưng không bị giết và tôi đã giết một người, Đừng tự trách mình, chẳng qua tại hoàn cảnh, tất cả chúng ta ở đây đều có tội và vô tội, tệ hơn cách cư xử của những người lính đang ở đây để bảo vệ chúng ta, họ có thể viện cớ lớn nhất là sợ hãi, Phải chỉ cứ để anh chàng khốn nạn mơn trớn tôi thì ngay lúc này hắn còn sống, còn thân thể tôi vẫn chẳng mất mát gì, Đừng nghĩ tới nữa, nghỉ đi, cố ngủ. Bà theo cô gái về giường cô, Nào, lên giường, Bà rất tử tế, cô gái nói, rồi thấp giọng, Tôi không biết làm sao, tôi sắp có kinh mà tôi không mang theo băng vệ sinh, Đừng lo, tôi có. Hai tay cô gái đeo kính đen tìm nơi để bám, nhưng vợ bác sĩ dịu dàng cầm lấy chúng trong tay bà, Nghỉ đi, nghỉ đi. Cô gái nhắm mắt, nằm yên như thế một phút, đáng lẽ cô có thể thiếp ngủ nếu tiếng cãi nhau không bỗng dưng nổ ra, có người đi tới phòng vệ sinh và khi trở lại thấy giường mình bị chiếm, không do ác ý, anh chàng kia đã thức dậy vì cùng lý do, trên đường đi họ đi ngang nhau, và hiển nhiên chẳng ai nảy ra ý nói, Cẩn thận đừng vào lầm giường khi anh quay lại đây nhé. Đứng đó, vợ bác sĩ nhìn hai anh mù đang cãi nhau, bà thấy họ không làm cử chỉ nào, hầu như không cử động thân mình, nhanh chóng biết rằng bây giờ chỉ có giọng nói và thính giác của họ dùng cho mọi mục đích, đúng, họ có tay, họ có thể đánh, túm, đấm, như thường nói, nhưng nhầm giường chẳng đáng để nhặng xị lên, giá mà toàn bộ gian dối của cuộc đời chỉ như thế này, và họ chỉ phải thỏa thuận, Số hai của tôi, của anh số ba, hiểu dứt khoát chưa, Nếu mình không bị mù thì chuyện nhầm lẫn này sẽ chả bao giờ xảy ra, Anh nói đúng, vấn đề của mình là mình mù. Vợ bác sĩ nói với chồng, Toàn thế giới ở cả trong này.
Không hẳn tất cả. Chẳng hạn, thực phẩm ở bên ngoài, và lâu lắm mới tới. Từ cả hai phòng, một số người đã đóng đô trong tiền sảnh, đợi lệnh trên loa phóng thanh. Họ cứ lê bước, lo âu và nôn nóng. Họ biết họ phải ra sân phía trước để tìm thùng thực phẩm bọn lính theo lời hứa sẽ để ở giữa cổng chính và bậc thang, và họ sợ có âm mưu hay cạm bẫy nào đó, Làm sao biết tụi nó sẽ không bắn, Sau mấy chuyện tụi nó đã làm thì chuyện gì tụi nó cũng có thể làm, Đâu có tin tụi nó được, Tụi mày không bắt tao ra đó được đâu, Tao cũng không, Phải có người đi nếu mình muốn ăn, Tôi không biết chết vì bị bắn và chết đói cái nào hơn, Tôi đi, Tôi cũng đi, Mình không phải đi hết cả, Bọn lính có thể không thích, Hay lo sợ rồi nghĩ mình định trốn, có lẽ vì vậy tụi nó bắn cái ông bị thương ở chân, Mình phải quyết định, Mình cẩn thận không thừa đâu, thử nhớ chuyện xảy ra hôm qua, chín người chết không hơn không kém, Tụi lính sợ mình, Còn tôi sợ tụi nó, Tôi muốn biết họ có bị mù không, Họ là ai, Tụi lính, Theo ý tôi thì tụi nó nên bị trước tiên. Họ cũng đồng ý, nhưng không tự hỏi tại sao, và ở đó không ai cho họ một lý do chính đáng là, Vì khi đó bọn lính sẽ không thể nhắm súng. Thời gian cứ trôi qua, loa phóng thanh vẫn im tiếng. Các ông bà đã cố chôn người chết của các ông bà chưa, một ông mù trong phòng đầu hỏi để có cái mà nói, Chưa, Xác bắt đầu bốc mùi rồi gây bệnh khắp chung quanh, Ôi dào để nó gây bệnh khắp cả và bốc mùi lên tới mây xanh, tôi mặc kệ, tôi không định làm gì trước khi ăn, như có người đã nói, ăn xong rồi mới rửa nổi, Tục lệ đâu có vậy, câu cách ngôn của anh sai, đại khái là chôn người chết xong rồi kẻ đưa ma mới ăn cỗ. Với tôi thì ngược lại. Vài phút sau một trong mấy người mù này nói, Có một việc làm tôi băn khoăn, Việc gì, Làm sao mình phân phát thực phẩm, Như mình đã làm, mình biết mình có bao nhiêu người, đếm khẩu phần, mỗi người nhận phần mình, cách đó đơn giản và công bằng nhất, Nhưng không ổn, có mấy người không có thức ăn, và cũng có đứa lấy hai phần, Việc phân phát tổ chức kém, Tổ chức luôn luôn kém trừ phi người ta tỏ ra tôn trọng và có kỷ luật, Phải chỉ ở đây mình có ai thấy được một chút thôi, Ôi dào, hắn sẽ giở trò bịp bợm để bảo đảm lấy được phần nhiều, Tục ngữ có câu, xứ mù thằng chột làm vua, Tục ngữ với chả tục nghiếc, Nhưng ở đây thì khác, Ở đây ngay cả thằng lé cũng chẳng thoát, Như tôi thấy, giải pháp tốt nhất là chia thực phẩm đồng đều cho các phòng, rồi mỗi người có thể tự lo, Ai nói đó, Tôi, Tôi là ai, Tôi, Anh ở phòng nào, Phòng số hai, Ai mà tin trò khôn vặt như vậy, vì phòng số hai ít bệnh nhân hơn, dàn xếp như vậy có lợi cho họ và họ sẽ có ăn nhiều hơn mình, vì phòng mình đầy nghẹt, Tôi chỉ thử góp ý, tục ngữ cũng nói chia chác thật thà là cha dại dột, Như cứt, đủ tục ngữ lắm rồi, mấy câu tục ngữ này làm tôi nổi cáu, Điều mình nên làm là mang tất cả thực phẩm tới phòng ăn, mỗi phòng bầu ra ba người để làm việc chia phần, vì sáu người đếm thì ít bị lạm dụng hay gian dối, Rồi làm sao mình biết họ nói thật khi bên kia nói số người trong phòng họ, Mình làm việc với người thật thà, Lại tục ngữ nữa hả, Không, đó là tôi nói, Anh bạn ơi, tôi không biết về chuyện thật thà nhưng mình đói là cái chắc.
Như thế từ nãy giờ đợi câu mật mã, một ám hiệu, một chiếc chìa khóa thần kỳ, cuối cùng tiếng nói trên loa phóng thanh vang lên, “Chú ý, chú ý, các bệnh nhân có thể ra lấy thực phẩm, nhưng chú ý, nếu ai tới quá gần cổng sẽ nhận cảnh cáo sơ bộ, và nếu họ không quay lại tức khắc, lời cảnh cáo thứ hai sẽ là viên đạn”. Người mù bị nhốt từ từ tiến tới, vài kẻ tự tin hơn tiến ra bên phải, họ nghĩ sẽ tìm thấy cửa ở đó, kẻ khác không chắc lắm về khả năng định hướng của mình đành đi lướt theo vách tường, cách này không thể lạc lối, khi tới góc nhà họ chỉ cần rẽ phải theo bức tường và sẽ tìm thấy cửa ở đó. Tiếng hống hách trên loa phóng thanh sốt ruột nhắc lại lời gọi. Sự đổi giọng hiển nhiên ngay cả đối với kẻ không có lý do gì để ngờ vực, đã khiến những người mù bị nhốt kinh hoảng. Một người trong bọn tuyên bố, Tôi không nhúc nhích khỏi đây đâu, tụi nó muốn thộp mình bên ngoài rồi giết cả bọn mình, Tôi cũng không đi nữa, một người khác nói, Tôi cũng không, người thứ ba thêm vào. Họ khựng lại tại chỗ, lưỡng lự, vài người muốn đi, nhưng sự sợ hãi đã lấn át họ. Tiếng nói lại vang lên, Nếu trong ba phút nữa không ai xuất hiện để nhận mấy cái thùng, chúng tôi sẽ lấy đi. Lời đe dọa này không làm họ vượt qua được sợ hãi, mà chỉ đầy nỗi sợ vào góc sâu nhất của tâm trí, như con thú bị săn đuổi đợi cơ hội tấn công. Người này cố nấp sau kẻ kia, những người mù bị nhốt di chuyển một cách sợ sệt ra đầu cầu thang. Họ không thấy các thùng thực phẩm không nằm dọc theo sợi dây hướng dẫn như họ mong đợi, vì họ không biết bọn lính sợ bị lây đã không chịu tới gần sợi dây mà người mù đang nắm. Các thùng thực phẩm được chồng lên nhau, đại khái gần chỗ vợ bác sĩ đã nhặt cái xẻng. Viên trung sĩ ra lệnh, Tiến tới, tiến tới. Lúng túng, người mù cố làm thành một hàng để tiến tới một cách trật tự, nhưng trung sĩ gầm lên, Các ông không tìm thấy mấy cái thùng ở đó đâu, buông sợi dây ra, buông nó ra, đi qua bên phải, bên phải của các ông, bên phải của các ông, đồ ngu, các ông đâu có cần mắt mới biết bên nào của các ông có cái tay phải. Lời cảnh cáo đưa ra đúng lúc, một số người mù ti mỉ trong mấy việc này đã diễn giải lệnh một cách nôm na, nếu là bên phải thì theo logic sẽ là bên phải của người đang nói, vì thế họ cố luồn dưới sợi dây để tìm mấy cái thùng chỉ có trời biết ở đâu. Trong tình huống khác, cảnh lố bịch này sẽ làm phần lớn khán giả có chừng mực cũng phải rú lên cười, khôi hài hết chỗ nói, một số người mù bò tới, mặt họ gần chạm đất như đàn lợn, một cánh tay vươn lên trời, trong khi mấy người kia có lẽ sợ vùng không gian trắng không có mái che sẽ nuốt chửng họ, tuyệt vọng bám lấy sợi dây và chăm chú lắng tai, đợi nghe tiếng đắc thắng đầu tiên khi có kẻ tìm được mấy cái thùng. Bọn lính đáng lẽ đã nhắm súng và bắn mà không ân hận tụi đần độn đang di chuyển trước mắt chúng như bầy cua gãy càng, đang lóng ngóng quơ càng tìm cái chân gãy của chúng. Sáng hôm đó tụi lính đã nghe trung đoàn trưởng nói tại doanh trại, vấn đề của bọn mù bị nhốt này chỉ giải quyết được bằng cách quét sạch họ, bọn đã ở đó và bọn sắp vào, khỏi cần quan tâm nhân đạo giả dối, đúng từng chữ của ông, giống như người ta cưa bỏ cái chân bị hoại tử để cứu cả người, Chó dại chết, ông nói để minh họa, bệnh dại chết theo. Đối với vài tên lính thiếu bén nhạy với cái đẹp của ngôn ngữ văn hoa, chúng khó hiểu một con chó dại dính líu gì tới người mù, nhưng lời nói của trung đoàn trưởng đáng giá ngàn vàng, một lần nữa nói một cách văn hoa, chả ai lên tới chức cao như vậy trong quân đội mà không nghĩ, nói và làm đúng tất cả mọi việc. Cuối cùng một ông mù va vào mấy cái thùng và kêu lên khi đã nắm lấy chúng, Đây rồi, đây rồi, nếu ngày nào đó người đàn ông này phục hồi lại thị lực, ông chắc chắn sẽ không tuyên bố một tin kỳ diệu với niềm vui lớn hơn như thế. Trong vài giây, những kẻ khác đã vồ lấy mấy cái thùng, tay chân hỗn loạn, mỗi người kéo một thùng về phía mình và đòi ưu tiên, Tôi khiêng nó, không, tôi sẽ khiêng nó. Những kẻ còn nắm sợi dây bắt đầu cảm thấy nôn nóng, bây giờ họ sợ chuyện khác, sợ khi phân chia thực phẩm họ có thể bị loại ra vì lười biếng hay hèn nhát, À, mấy ông không chịu bò xuống đất, chổng mông lên trời và chịu rủi ro bị bắn, mấy ông khỏi ăn, hãy nhớ câu cách ngôn, có khó mới có miếng ăn. Tin vào câu dạy đời này, một người mù buông sợi dây ra rồi đi, hai tay đưa về phía huyên náo, Họ không thế bỏ rơi mình, nhưng tiếng ồn chợt im và chỉ còn tiếng người bò trên mặt đất, tiếng than vãn tắc nghẽn, một khối âm thanh phân tán và hỗn loạn đến từ mọi phía và hư không. Ông ngừng lại, do dự, cố đi ngược về chỗ an toàn của sợi dây, nhưng ông đã mất hướng, bầu trời trắng của ông không một ngôi sao, và bây giờ có thể nghe tiếng trung sĩ ra lệnh cho bọn đang tranh nhau mấy cái thùng trở lại bậc thang, vì điều ông đang nói chỉ có thể là nói với họ, Để tới chỗ các ông muốn tới thì phải tùy là các ông đang ở đâu. Không còn người mù nào nắm sợi dây, họ phải quay lại chỗ cũ hết, và bây giờ họ đang đứng ở đầu cầu thang đợi kẻ khác về. Ông mù mất hướng không dám đi khỏi chỗ của mình. Trong tình thế đau khổ, ông bật lên một tiếng kêu lớn, Làm ơn giúp tôi với, ông không biết bọn lính đã chĩa súng vào ông và đợi ông bước qua lằn ranh vô hình giữa sống và chết. Đứng đó cả ngày hả, thằng mù kia, trung sĩ hỏi bằng giọng hơi hốt hoảng, thật ra hắn không cùng ý kiến với chỉ huy trưởng, Ai có thể bảo đảm là ngày mai mình không gặp số phận đó, còn bọn lính thì rõ ràng chỉ cần nghe lệnh là chúng giết, nghe một lệnh khác là chúng chết, Tụi mày chỉ bắn khi tao ra lệnh, trung sĩ quát. Câu nói này khiến ông mù nhận ra rằng mạng sống của ông đang gặp nguy. Ông khuỵu xuống van xin, Làm ơn giúp tôi với, chỉ cho tôi chỗ phải đi, Cứ bước tới, ông mù, cứ bước tới hướng này, một tên lính gọi từ xa bằng giọng thân thiện giả dối, người đàn ông mù đứng lên, đi ba bước, rồi chợt ngừng lại, cách dùng động từ làm ông ngờ vực, cứ bước tới hướng này không giống như cứ đi, cứ bước tới hướng này bảo ta rằng hướng này, đúng hướng này, theo phía này, ta sẽ tới nơi ta được gọi tới, chỉ để lãnh viên đạn thay thế một dạng mù này bằng một dạng mù khác. Sáng kiến này chúng ta có thể mô tả là tội ác do một tên lính có thành tích bất hảo đưa ra, và trung sĩ lập tức cản lại bằng hai lệnh gay gắt liên tiếp, Đứng lại, Đằng sau, quay, theo sau là một lệnh nghiêm khắc cho thằng mất dạy này, hắn có diện mạo của loại người không thể tin tưởng để giao cho khẩu súng. Phấn khởi vì sự can thiệp tử tế của trung sĩ, những người mù đã tới đầu thang bỗng làm huyên náo dữ dội như để làm cột nam châm cho ông mù lạc đường. Giờ đây tự tin hơn, ông tiến thẳng tới, Cứ hét lên, cứ hét lên, ông van xin họ, trong khi những người mù kia hoan hô như đang nhìn một người năng nổ nhưng mệt nhoài sắp hoàn tất một cú chạy nước rút dài. Ông được chào đón nhiệt liệt, ít nhất họ có thể làm như thế, trong nghịch cảnh đã biết hay có thể dự đoán, mình biết bạn mình là ai.
Tình đồng chí này không kéo dài. Lợi dụng sự huyên náo, vài người mù đã cố lén lấy đi một số thùng, một sự phản bội công khai để ngăn trước mọi bất công giả định trong lúc phân phối. Những người trung thực, ở đâu cũng có dù thiên hạ nói gì đi nữa, phẫn uất phản đối rằng họ không thể sống như vậy, Nếu chúng ta không tin được nhau thì rốt cuộc sẽ ra sao? vài người hỏi một cách văn hoa, nhưng họ có đầy đủ lý lẽ, Mấy đứa lưu manh này muốn ăn đòn, kẻ khác đe dọa, bọn chúng không muốn bị ăn đòn, nhưng mọi người đều hiểu nghĩa câu này, một câu nói thiếu chính xác có thể tha thứ chỉ vì nó rất thích hợp. Tụ tập trong tiền sảnh, người mù đi đến thỏa thuận, đây là cách thực tế nhất để giải quyết bước đầu tình thế khó khăn của họ, họ sẽ chia đều các thùng còn lại cho hai phòng, may mắn thay số thùng là số chẵn, và lập ra một ủy ban, cũng trên căn bản đồng đều, để tiến hành một cuộc điều tra nhằm tìm lại các thùng thất lạc, nghĩa là mấy thùng bị mất cắp. Họ mất thời gian tranh luận, như đã trở thành thói quen của họ, về việc trước và sau, nghĩa là, họ nên ăn trước rồi điều tra, hay ngược lại, vì họ đã bị nhịn đói lâu, ý kiến chung là nên bắt đầu bằng cách thỏa mãn bao tử là tiện hơn, rồi sau đó sẽ tiến hành điều tra, Và đừng quên các ông bà phải chôn người chết của các ông bà, một người trong phòng đầu nói, Chúng tôi chưa giết tụi nó mà ông muốn chúng tôi chôn, một anh chàng dí dỏm nói, tự lấy làm thích thú vì lối chơi chữ này. Mọi người cười. Tuy nhiên, chẳng mấy chốc họ khám phá ra là không tìm được thủ phạm trong các phòng. Mấy người mù đợi thực phẩm ở cửa của cả hai phòng nói họ đã nghe có kẻ hình như đi rất vội qua hành lang, nhưng họ thề là chẳng có ai vào phòng, nói gì tới khiêng các thùng thức ăn. Vài người nhớ cách chắc nhất để tìm ra mấy tên này là nếu tất cả đã trở về giường thì hiển nhiên giường nào chưa có người phải thuộc về tụi ăn cắp, vì thế họ chỉ phải đợi cho tới khi chúng quay về từ chỗ đang trốn và ăn vụng là vồ lấy, để cho chúng bài học tôn trọng nguyên tắc bất khả xâm phạm tới tài sản tập thể.
Để tiến hành kế hoạch này, dù thuận lợi và phù hợp với ý thức công lý sâu đậm, có một bất lợi nghiêm trọng là phải hoãn bữa ăn sáng rất được thèm thuồng đã nguội lạnh, mà chẳng ai đoán trước được là hoãn bao lâu. Mình cứ ăn trước, một ông mù đề nghị, và đa số đồng ý tốt hơn họ nên ăn trước. Chao ôi, sau vụ ăn cắp tai tiếng ấy thức ăn chỉ còn lại rất ít. Vào giờ này, ở nơi lẩn trốn nào đó trong tòa nhà cũ nát này, bọn ăn cắp chắc đang ngấu nghiến gấp đôi gấp ba khẩu phần hình như đã được cải thiện bất ngờ, gồm cà phê sữa, bánh quy và bánh mì trét bơ thực vật, trong khi kẻ đứng đắn phải chịu vừa lòng với số lượng ít hơn gấp đôi gấp ba lần, và thậm chí ít hơn như thế. Bên ngoài, loa phóng thanh gọi người bị lây đi lấy khẩu phần thực phẩm của họ, âm thanh cũng vang tới một số người bị nhốt trong khu nhà đầu, khi họ buồn bã nhai bánh quy ngâm nước. Một ông mù rõ ràng bị ảnh hưởng vì bầu không khí thiếu lành mạnh do bọn ăn cắp thực phẩm gây ra, gợi ý, Nếu mình đợi trong tiền sảnh, họ sẽ sợ chết khiếp khi gặp mình, họ có thể đánh rơi vài thùng lẻ, nhưng bác sĩ nói ông không nghĩ như thế là đúng, phạt người không có lỗi là bất công. Khi họ đã ăn xong, vợ bác sĩ và cô gái đeo kính đen mang thùng giấy ra sân, các túi cạn sữa và cà phê, ly giấy, nói tóm lại, mọi thứ không ăn được. Chúng ta phải đốt rác, vợ bác sĩ đề nghị, và tống khứ lũ ruồi gớm ghiếc này.
Ai ngồi trên giường nấy, những người mù đợi tụi ăn cắp trở về, Đồ ăn cắp chó chết, tụi nó là đồ chó, một giọng dữ dội bình phẩm, không biết rằng ông đang làm người ta nhớ lại một kẻ chẳng đáng bị khiển trách vì không biết nói cách nào khác. Nhưng bọn lưu manh không lộ diện, chắc chúng đã nghi ngờ, chắc chắn chúng nghi vì trong bọn chúng cũng có tên tinh ranh như anh chàng đề nghị cho chúng một trận nên thân. Nhiều phút trôi qua, vài người mù đã nằm dài, một số đã ngủ. Vì thưa bạn, người ta nói ăn ngủ là như vậy. Cân nhắc cho kỹ, sự việc có thể tệ hơn. Miễn là họ tiếp tục cung cấp thực phẩm cho mình, vì mình không thể sống thiếu thức ăn, thì nơi này giống như khách sạn. Ngược lại, người mù ở ngoài thành phố khổ sở biết mấy, đúng, khổ lắm. Vấp trên đường phố, mọi người gặp hắn là bỏ chạy, gia đình hắn hốt hoảng, sợ lại gần hắn, tình mẫu tử, lòng hiếu thảo, là huyền thoại, mình có thể bị đối xử y như cách minh bị đối xử trong này, nhốt mình trong phòng, và nếu mình may lắm thì có đĩa thức ăn để ngoài cửa. Nhìn tình hình một cách khách quan, đừng để định kiến hay oán giận che mờ lý trí, phải thừa nhận nhà chức trách đã có tầm nhìn rộng khi quyết định nhập người mù lại với người mù, loại nào sống với loại đó là quy tắc sáng suốt cho những ai phải sống chung, như người bị phong với người bị phong, và hẳn nhiên ông bác sĩ ở cuối phòng đằng kia nói đúng khi ông ấy bảo chúng ta phải tự tổ chức, thật vậy, vấn đề là tổ chức thực phẩm trước tiên, rồi tổ chức thứ hai cũng không thể thiếu cho đời sống là chọn một số ông bà đáng tin cậy đứng lên chỉ huy, đặt ra các luật lệ được chấp thuận để sống chung trong phòng này, các việc đơn giản như quét sàn, thu dọn và lau chùi, chúng ta chả có gì để than phiền về chuyện đó, thậm chí họ cung cấp cho ta xà phòng và chất tẩy, lo cho giường của chúng ta được thu dọn, điều quan trọng là đừng mất tự trọng, tránh xung đột với lính tráng, họ chỉ làm nhiệm vụ của họ bằng cách canh gác chúng ta, chúng ta không muốn có thêm thương vong nữa, hỏi chung quanh xem buổi tối có ai muốn giúp vui cho chúng ta bằng truyện, truyền thuyết, giai thoại, bất kỳ cái gì, thử nghĩ chúng ta sẽ may mắn nhường nào nếu có người thuộc lòng Thánh kinh, chúng ta có thể lặp lại mọi chuyện từ thuở sáng thế, điều quan trọng là chúng ta nên lắng nghe nhau, tiếc là chúng ta không có radio, âm nhạc luôn là một thứ giải khuây tốt, chúng ta có thể theo dõi các bản tin, chẳng hạn, nếu tìm được một phương thuốc chữa bệnh của chúng ta thì chúng ta sẽ mừng biết mấy.
Rồi việc không thể tránh đã xảy ra. Họ nghe nhiều tiếng súng bắn ngoài đường, một người hét lên, Tụi nó tới giết mình, Bình tĩnh, bác sĩ nói, chúng ta phải nghĩ cho hợp lý, nếu họ muốn giết mình thì họ vào đây bắn chứ không bắn bên ngoài. Bác sĩ nói đúng, chính trung sĩ đã ra lệnh bắn chỉ thiên, chứ không phải anh lính nào bỗng nhiên hóa mù lúc ngón tay đặt trên cò súng, rõ ràng chẳng có cách nào khác để kiểm soát và đe dọa những người mới bị đưa đi nhốt khi họ ngã khỏi xe, Bộ Y tế đã báo cho Bộ Quốc phòng, Chúng tôi gửi tới bốn xe tải đầy nhóc, Bao nhiêu người, Khoảng hai trăm bệnh nhân, Chỗ nào chứa mấy người này, các phòng dành cho người mù là ba phòng bên cánh phải, theo tin chúng tôi đã nhận, sức chứa tổng cộng là một trăm hai chục, đã có chừng sáu, bảy chục người bị nhốt trong đó rồi, trừ khoảng một chục mà chúng tôi buộc phải bắn chết, Có một giải pháp là mở hết các phòng, Như vậy nghĩa là người bị lây sẽ tiếp xúc trực tiếp với người mù, Rất có thể không sớm thì muộn người bị lây cũng sẽ mù, vả lại, tình hình này tôi chắc là mình sẽ bị lây hết, không thể có một người nào ở ngoài tầm nhìn của người mù, Tôi tự hỏi nếu người mù không thể thấy thì làm sao anh ta truyền bệnh này bằng cách nhìn, Thưa Đại tướng, đây hẳn là căn bệnh hợp lý nhất thế giới, mắt mù truyền bệnh mù cho mắt thấy, còn gì đơn giản hơn, Chúng tôi ở đây có một đại tá tin vào giải pháp là bắn người mù ngay khi phát hiện, Xác chết thay thế người mù thì tình hình cũng chẳng khá hơn gì, Mù khác với chết, Đúng, nhưng chết là mù, Vậy là sẽ có chừng hai trăm người, Đúng, Và chúng tôi nên làm gì với mấy người lái xe, Nhốt họ vào luôn. Chiều tối hôm đó, Bộ Quốc phòng liên lạc với Bộ Y tế, Ông có muốn nghe tin mới nhất không, cái ông đại tá chúng tôi nhắc tới hồi sớm đã hóa mù, Thật là lý thú nếu biết bây giờ ông ta nghĩ gì về ý kiến sáng ngời của ông ta, Ông ta nghĩ rồi, ông ta tự bắn vào đầu, À tôi gọi đó là thái độ trước sau như một, Quân đội luôn luôn sẵn sàng làm gương.
Cổng đã được mở rộng. Để giữ đúng thủ tục doanh trại, trung sĩ ra lệnh xếp hàng năm, nhưng người mù không thể đếm đúng, đôi khi họ nhiều hơn năm, khi khác ít hơn, và rốt cuộc họ đều túm tụm quanh lối vào, đúng là bọn dân sự, thiếu ý thức trật tự, thậm chí họ không nhớ đưa phụ nữ và trẻ con ra phía trước, như trong mấy vụ đắm tàu. Phải nói trước khi chúng ta quên, không hẳn tất cả các phát súng đều bắn chỉ thiên, một anh lái xe không chịu đi với người mù, anh phản đối là anh nhìn hoàn toàn rõ, ba giây sau, kết quả đã chứng minh quan điểm của Bộ Y tế khi ban sắc lệnh rằng chết là mù. Viên trung sĩ ra lệnh đã kể lúc nãy, Đi tới, có cái cầu thang sáu bậc, khi tới đó, quý vị đi từ từ lên bậc thang, nếu người nào vấp thì không biết chuyện gì sẽ xảy ra, lời chỉ dẫn bị bỏ qua duy nhất là họ nên đi theo sợi dây, nhưng rõ ràng nếu họ dùng nó thì chả biết bao giờ họ mới vào tới bên trong, Nghe đây, trung sĩ thận trọng, ông yên tâm vì tất cả đã vào trong cổng, có ba phòng bên phải và ba phòng bên trái, mỗi phòng có bốn chục giường, các gia đình nên ở chung với nhau, tránh chen chúc, đợi ở lối vào rồi nhờ mấy người đã ở bên trong giúp cho, mọi việc sẽ đâu vào đấy, ổn định lại và bình tĩnh, bình tĩnh, thực phẩm của quý vị sẽ được giao sau.
Thật là không đứng đắn nếu tưởng tượng bọn người mù này, đông như vậy, vừa tiến như bầy cừu tới lò sát sinh, vừa kêu be be theo thói quen, khá chen chúc, đúng vậy, nhưng chúng cứ như thế, vai kề vai, mũi kề mũi. Một số không thể thôi khóc, kẻ khác la hét vì sợ hãi và giận dữ, người nọ chửi rủa, một số thốt lên lời đe dọa suông thậm tệ, Nếu tao tóm được mày thì tao sẽ móc mắt mày, chắc hắn đang nói tới bọn lính. Không thể tránh khỏi, đám bệnh nhân đầu lên tới cầu thang phải dùng một chân để dò chiều cao và chiều sâu của các bậc thang, kẻ phía sau đầy tới làm hai, ba người phía trước ngã xuống, may là không xảy ra việc gì nghiêm trọng hơn, chả có gì ngoài một vài ống chân bị xước, lời khuyên của trung sĩ thật là phúc đức. Một số người mới tới đã vào tiền sảnh, nhưng không thể mong hai trăm người tự thu xếp một cách dễ dàng, chẳng những mù mà lại không người hướng dẫn, tình trạng khổ sở này càng tệ hại hơn vì chúng ta đang ở trong một tòa nhà cũ và thiết kế kém, viên trung sĩ chỉ biết về quân vụ đã nói không đủ, mỗi bên có ba phòng, chúng ta phải biết bên trong thế nào, cửa hẹp như hũ nút, hành lang như thằng khùng nhà thương điên, mở ra không có lý do và đóng lại chẳng ai biết chỗ nào, và hình như chưa ai muốn tìm hiểu. Theo bản năng, những người mù đi trước đã chia thành hai hàng, đi về cả hai phía dọc theo tường để tìm cửa vào, một phương pháp an toàn, hẳn nhiên, giả sử rằng không có bàn ghế nào chắn lối. Sớm hay muộn, với hiểu biết và kiên nhẫn, đám người mới bị nhốt sẽ ổn định, nhưng chỉ sau khi thắng trận chiến cuối cùng giữa hàng người đầu bên cánh trái với bọn bị lây nhốt bên ấy. Việc đó phải xảy ra thôi. Người ta đã thỏa thuận, thậm chí Bộ Y tế đã đặt ra quy định là cánh bên này dành riêng cho người bị lây, và nếu đúng như tiên đoán thì rất có khả năng rốt cuộc họ sẽ mù hết, nhưng về mặt thuần lý, khi họ chưa hóa mù thì chả có gì bảo đảm số phận họ phải mù. Một kẻ đang ngồi yên ổn ở nhà, tin rằng ít nhất trong trường hợp anh ta mọi việc đều sẽ ổn thỏa, rồi bỗng dưng anh ta thấy một đám người mà anh ta sợ nhất đang gào thét lao thăng tới anh ta. Thoạt đầu, người bị lây nghĩ đây là một nhóm bệnh nhân như họ, tuy đông hơn, nhưng họ không bị nhầm lâu, tụi này mù hẳn rồi, những kẻ đang gác ở cửa quát tháo, Quý vị không được vào đây, khu này của chúng tôi, không phải cho người mù, quý vị ở khu bên kia. Một số người mù cố quay lại tìm một lối vào khác, họ bất cẩn biết là đi bên phải hay trái, nhưng khối người cứ tiếp tục lũ lượt từ ngoài kéo vào xô đầy họ không ngừng. Bọn bị lây bảo vệ cửa vào bằng cách đấm đá, người mù cố hết sức trả đũa, họ không thấy đối phương, nhưng biết cú đấm từ đâu tới. Hai trăm người không vào được tiền sảnh, hay đại khái bấy nhiêu, vì thế chả bao lâu cửa dẫn vào sân dù khá rộng đã tắc nghẽn hoàn toàn, như bị đậy nút, họ không thể tiến hay lùi, người bên trong bị đè bẹp cố tự vệ bằng cách đá và thúc cùi chỏ kẻ bên cạnh đang nghẹt thở, ta nghe tiếng kêu khóc, bọn trẻ mù nức nở, các bà mẹ mù ngất xỉu, trong lúc đó đám đông chưa vào được càng đầy mạnh hơn, họ hoảng sợ vì tiếng gầm thét của bọn lính không thể hiểu vì sao tụi ngu ngốc này chưa vào. Có một lúc kinh hoàng, làn sóng người dồn ngược lại dữ dội khi họ cố thoát ra khỏi chỗ hỗn loạn, khỏi mối hiểm họa bị nghiền nát sắp xảy ra, chúng ta hãy đặt mình vào vị trí của bọn lính, bỗng dưng chúng thấy một số rất đông người đã vào lại văng ra, lập tức chúng nghĩ tới tình huống xấu nhất, rằng bọn người mới tới sắp quay lại, chúng ta hãy nhớ tới mấy lần trước, một vụ tàn sát rất có thể xảy ra. May mắn thay, trung sĩ một lần nữa đủ sức đối phó với khủng hoảng, chính ông bắn chỉ thiên, chỉ để gây chú ý, và hét trên loa phóng thanh, Bình tĩnh, mấy người trên bậc thang nên lùi lại một chút, tránh lối, đừng xô đầy và cố giúp nhau. Đòi hỏi như thế là quá đáng, bên trong tiếp tục xô xát, nhưng tiền sảnh trống dần nhờ rất nhiều người mù đã đi qua cửa bên cánh phải, họ được người mù bên trong nhận vào, vui vẻ hướng dẫn họ tới phòng thứ ba, lúc này còn trống, hay tới giường vẫn chưa có người trong phòng thứ hai. Có một lúc hình như trận chiến sẽ kết thúc, thắng lợi về phía người bị lây, chẳng phải vì họ khỏe hơn và thấy rõ hơn, mà vì người mù nhận thấy lối vào bên kia ít vướng víu hơn, đã ngưng mọi đụng chạm, như viên trung sĩ sẽ nói trong buổi thảo luận về chiến lược và chiến thuật quân sự cơ bản. Tuy nhiên, chiến thắng của phe phòng thủ không kéo dài. Từ cửa vào cánh bên phải có tiếng loan báo hết chỗ, tất cả các phòng đã đầy, dù vậy vẫn còn nhiều người mù bị đầy vào tiền sảnh, một khi phân tán được nút người cho tới lúc đó còn làm nghẽn lối vào chính, một khi số đông người mù bên ngoài có thể tiến tới trú dưới mái, an toàn xa khỏi sự đe dọa của bọn lính, họ sẽ sống. Hậu quả của hai dòng chuyển dịch này, gần như cùng lúc, là khơi lại cuộc xung đột ở lối vào cánh bên tay trái, một lần nữa lại đấm đá, một lần nữa lại la hét, và như chưa đủ, trong cơn hỗn loạn một số người mù ngơ ngác đã tìm cách phá tung cửa tiền sảnh dẫn thắng vào sân trong, hét lên là có xác chết ngoài đó. Hãy tưởng tượng nỗi kinh hoàng của họ. Họ cố hết sức rút lui, Có xác chết ngoài đó, họ lặp lại, như thể họ sắp bị chết theo, và khoảnh khắc sau tiền sảnh lại là cơn lốc thịnh nộ tệ hại nhất, rồi trong một thôi thúc tuyệt vọng bất thần, khối người đổi hướng qua cánh trái, tràn qua mọi thứ phía trước họ, sức kháng cự của người bị lây tan vỡ, nhiều người không chỉ bị lây nữa, kẻ khác chạy như lũ điên, vẫn cố trốn số phận đen tối của mình. Họ chạy vô ích. Từng người nối tiếp nhau hóa mù, mắt họ bỗng chìm trong ngọn thủy triều trắng gớm ghiếc đang tràn ngập các hành lang, phòng ốc, toàn không gian. Ngoài kia nơi tiền sảnh, trong sân, những người mù vô vọng, vài người bị đánh bầm tím, kẻ khác bị giày xéo, bị kéo lê theo, phần lớn là cụ già, phụ nữ và trẻ con, những kẻ ít có hoặc không có cách tự vệ, và hẳn là phép lạ khi không có thêm xác chết nào cần chôn nữa. Rải rác trên mặt đất, ngoài mấy chiếc giày tuột khỏi chân, túi xách, va li, giỏ, tài sản của từng người, bị mất vĩnh viễn, ai vớ được những vật này sẽ khư khư rằng cái mà họ đang cầm là của họ.
Một ông già đeo miếng vải đen che một mắt từ sân đi vào. Ông cũng đã mất hành lý hay chẳng mang theo món nào. Ông là người đầu tiên vấp trên mấy xác chết, nhưng ông không hét lên. Ông ở bên cạnh họ, đợi bình yên và tĩnh lặng trở lại. Ông đợi một giờ. Bây giờ tới lượt ông tìm chỗ trú. Chầm chậm, hai tay giơ ra, ông tìm đường. Ông tìm thấy cửa phòng đầu tiên bên tay phải, nghe tiếng nói bên trong, rồi hỏi, May ra còn giường nào trong này không.
Người mù tới đông hình như mang lại ít nhất một lợi thế, hay đúng hơn, hai lợi thế, lợi thế thứ nhất là về tâm lý, vì việc đợi người mới tới xuất hiện bất cứ lúc nào rất khác với việc biết là tòa nhà rốt cuộc đã đầy cứng, bây giờ họ sẽ có thể thiết lập và duy trì các mối quan hệ ổn định và lâu dài với người bên cạnh mà không gặp xáo trộn như cho tới nay, vì những gián đoạn và trở ngại liên tục do người mới tới gây ra buộc chúng ta cứ phải cải tổ lại đường dây thông tin. Lợi thế thứ hai, mang tính thiết thực, trực tiếp và đáng kể, là nhà chức trách dân sự lẫn quân sự bên ngoài đã hiểu rằng cung cấp thực phẩm cho hai, ba chục người là một chuyện ít nhiều có thể du di được, ít nhiều có thể chuẩn bị được, vì họ ít, họ đành chịu những sơ suất hay chậm trễ năm thì mười họa đối với việc giao thức ăn, trong khi đó đương đầu với trách nhiệm bất ngờ và phức tạp trong việc nuôi hai trăm bốn chục người đủ mọi loại, mọi tầng lớp và tính khí là một chuyện khác. Hai trăm bốn chục, xin lưu ý, và mới chỉ là nói đại khái, vì có ít nhất hai chục người mù không xoay xở tìm được giường và ngủ trên sàn nhà. Bất luận thế nào, phải biết rằng ba chục người chia nhau ăn khẩu phần của mười người là khác với hai trăm sáu chục người chia nhau số thực phẩm dự tính cho hai trăm tư. Sự khác biệt hầu như không thấy. Giờ đây, đảm nhận có ý thức trách nhiệm gia tăng này, và có lẽ không nên coi nhẹ giả thuyết là sợ rối loạn có thể bùng nổ thêm, nhà chức trách đã quyết định thay đổi thủ tục, bằng cách ra lệnh thực phẩm sẽ được giao đúng hạn và đúng số lượng. Hiển nhiên sau vụ xung đột, đáng tiếc về mọi khía cạnh, mà chúng ta phải chứng kiến, chứa quá nhiều người mù sẽ không dễ và sẽ có mâu thuẫn, chúng ta chỉ cần nhớ tới những kẻ bị lây đáng thương mới đó còn thấy rồi bây giờ chẳng thấy gì, các cặp vợ chồng bị chia cách và mất con, nỗi bực dọc của những kẻ bị giày xéo và đánh quỵ, có người bị hai, ba lần, những kẻ đi loanh quanh tìm của cải yêu quý của họ mà không gặp, người ta phải hoàn toàn vô cảm mới có thể quên, như thể bất hạnh của những kẻ đáng thương này là vô nghĩa. Tuy nhiên, không thể chối bỏ rằng lời loan báo phần ăn trưa sắp được giao giống như niềm an ủi cho mọi người. Và căn cứ vào sự thiếu tổ chức thích đáng trong vụ việc này hay thiếu quyền hạn để có thể áp đặt kỷ luật cần thiết, nếu không thể chối bỏ rằng gom góp và phân phối một số lượng thực phẩm lớn như thế để nuôi bấy nhiêu cái miệng đã dẫn tới hiểu lầm thêm, chúng ta phải thừa nhận bầu không khí đã thay đổi tốt hơn một cách đáng kể, khi trong khắp nhà thương điên cũ kỹ đó chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng nhóp nhép của hai trăm sáu chục cái miệng đang nhai. Sau đó ai sẽ dọn đống rác này là một vấn đề cho tới nay chưa được trả lời, chỉ đến chiều tối tiếng loa phóng thanh mới nhắc lại các quy định về cách sống trật tự phải theo để có lợi cho tất cả, khi ấy mức độ tôn trọng của người mới tới đối với các quy định này mới trở nên rõ ràng. Đâu phải là chuyện nhỏ khi những người sống trong phòng thứ hai bên cánh phải rốt cuộc đã quyết định chôn người chết của họ, ít nhất chúng ta sẽ tống khứ được mùi hôi thối đặc biệt đó, mùi của người sống dù tanh tưởi vẫn dễ quen hơn.
Về phần phòng thứ nhất, có lẽ vì kỳ cựu nhất và do đó ổn định nhất trong tiến trình theo đuổi việc thích nghi với tình trạng mù lòa, mười lăm phút sau khi mọi người trong phòng ăn xong, trên sàn chẳng còn một mấu giấy bẩn, một cái đĩa bỏ quên hay một hộp nước nhỏ giọt nào. Mọi thứ đã được gom lại, cái nhỏ đặt trong cái lớn, cái bẩn nhất đặt trong cái ít bẩn, như đòi hỏi của bất cứ quy định hợp lý nào về vệ sinh, chú ý tới hiệu quả cao nhất trong việc thu gom thức ăn thừa và rác, cũng như tiết kiệm nỗ lực cần thiết để thi hành công tác này. Cách suy nghĩ, tất yếu thôi, sẽ định đoạt cách cư xử trong tình thế này, vì vậy không thể tùy hứng hay tự phát. Khảo sát kỹ một ca, cách tiếp cận có tính sư phạm của bà mù ở cuối phòng hình như có ảnh hưởng quyết định, người đàn bà cưới ông bác sĩ nhãn khoa, bà không hề mệt mỏi nhắc chúng ta, Nếu chúng ta không thể sống hoàn toàn như con người, ít nhất chúng ta hãy làm mọi việc trong khả năng của mình để đừng sống hoàn toàn như con thú, bà hay nhắc lại lời này tới nỗi cả phòng rốt cuộc biến lời khuyên của bà thành một câu châm ngôn, một câu cách ngôn, thành một học thuyết, một luật sống, những lời xét cho kỹ chỉ giản dị và cơ bản, có thể nó chỉ là cách suy nghĩ thuận lợi để hiểu nhu cầu và hoàn cảnh, khiến cho ông già đeo miếng vải đen che mắt được chào đón niềm nở, dù chỉ qua loa, lúc ông ló qua cửa và hỏi người bên trong, May ra còn giường nào trong này không. Vì một tình cờ may mắn, ở đây chỉ ngụ ý tới các hệ quả về sau, còn một giường, chỉ một, và chả ai rõ làm sao nó còn như vậy sau vụ xâm lấn, trên chiếc giường đó gã ăn cắp xe đã chịu đau đớn khôn tả, có lẽ vì thế nó toát ra một luồng khí khổ ải khiến thiên hạ tránh xa. Đây là vận hành của số phận, những bí ẩn khó hiểu, và trùng hợp ngẫu nhiên này không phải là lần đầu, hơn thế nữa, chúng ta chỉ cần thấy rằng tất cả bệnh nhân đau mắt tình cờ có mặt trong phòng mạch bác sĩ khi người đàn ông mù đầu tiên xuất hiện tại đó rốt cuộc đều ở trong phòng này, và ngay cả như thế người ta vẫn nghĩ cảnh ngộ sẽ khó ngẫu nhiên hơn nữa. Thấp giọng như thường lệ, để không ai ngờ tới bí mật về sự có mặt của bà tại nơi này, vợ bác sĩ thì thầm vào tai chồng, Có lẽ ông ấy cũng là một bệnh nhân của anh, ông ta già, hói đầu, tóc trắng, và đeo băng đen trên một mắt, em nhớ anh đã kể cho em về ông ta, Mắt nào, Bên trái, Đúng là ông ta. Bác sĩ tiến ra lối đi và nói, hơi cao giọng, Tôi muốn sờ người vừa đến với chúng ta, tôi sẽ yêu cầu ông ta đi tới phía này và tôi sẽ đi về phía ông ta. Họ chạm nhau giữa đường, ngón tay sờ ngón tay, như hai con kiến nhận ra nhau bằng cách ngọ nguậy râu, nhưng trường hợp này không phải như thế, bác sĩ xin phép lướt tay lên mặt ông già, và thấy ngay miếng che mắt. Không nghi ngờ gì nữa, đây là người còn thiếu ở đây, bệnh nhân đeo miếng băng đen, ông thốt lên, Ông bảo sao, ông là ai, ông già hỏi, Tôi là, hay đúng ra tôi đã là bác sĩ mắt của ông, ông nhớ không, chúng ta đã hẹn ngày để giải phẫu bệnh đục nhãn cầu cho ông, Làm sao ông nhận ra tôi, Trước hết là nhờ giọng ông, giọng nói là thị lực của người không thấy, Vâng, giọng nói, tôi cũng bắt đầu nhận ra giọng ông, ai mà ngờ được, bác sĩ, bây giờ thì chẳng cần giải phẫu nữa rồi, Nếu có cách chữa chứng bệnh này thì cả hai chúng ta đều cần, Thưa bác sĩ, tôi nhớ ông bảo là sau khi giái phẫu tôi sẽ không nhận ra thế giới tôi đang sống nữa, bây giờ chúng ta biết là ông nói đúng, Ông bị mù lúc nào, Tối hôm qua, Vậy mà họ đã mang ông vào đây rồi, Ngoài đó người ta hốt hoảng tới nỗi chả mấy chốc họ sẽ giết tức khắc những người họ biết là hóa mù, ở đây họ đã giết mười người, một giọng nam nói, Tôi đã bắt gặp họ, ông già đeo miếng vải đen che mắt chỉ nói, Họ là người ở phòng bên kia, chúng tôi đã chôn ngay người chết của chúng tôi rồi, giọng đó nói thêm như kết thúc báo cáo. Cô gái đeo kính đen đã tiến lại gần, Ông nhớ tôi không, tôi đeo kính đen, Tôi nhớ cô rất rõ, mặc dù tôi bị đục nhãn cầu, tôi nhớ cô rất xinh, cô gái mỉm cười, Cảm ơn ông, cô nói, rồi quay về chỗ. Ở đó cô nói to, Đứa bé cũng ở đây, Cháu muốn gặp mẹ, giọng đứa bé nghe như đã hết hơi vì khóc thầm và yếu. Còn tôi là người bị mù đầu tiên, người đàn ông mù đầu tiên nói, tôi ở đây với vợ tôi, Còn tôi là người làm trong phòng mạch, cô nhân viên phòng mạch nói. Vợ bác sĩ nói, Chỉ còn tôi phải tự giới thiệu, và bà nói bà là ai. Khi ấy như đế đáp lại lời chào đón, ông già loan báo, Tôi có radio, Radio, cô gái đeo kính đen vừa vỗ tay vừa thốt lên, nhạc, thích thật, ừ, nhưng radio nhỏ thôi, dùng pin, mà pin không dùng mãi được, ông già nhắc cô, Đừng bảo tôi là mình sẽ phải chui rúc trong này vĩnh viên, người đàn ông mù đầu tiên nói, Vĩnh viễn à, không đâu, vĩnh viễn là thời gian quá dài, Chúng ta có thể nghe tin tức, bác sĩ gợi ý, Và một chút nhạc, cô gái đeo kính đen nài nỉ, Mỗi người thích một loại nhạc khác nhau, nhưng chúng ta chắc chắn đều muốn biết bên ngoài thế nào, tốt hơn nên dùng radio vào việc đó, Tôi đồng ý, ông già đeo miếng vải đen che mắt nói. Ông lấy cái radio nhỏ trong túi áo khoác ra và bật lên. Ông bắt đầu tìm các đài khác nhau, nhưng tay ông còn quá run để bắt làn sóng, và trước tiên là nghe tiếng nhiễu âm lúc có lúc không, từng đoạn nhạc và tiếng nói, cuối cùng tay ông vững hơn, nhạc bắt đầu nghe được, Để im đó một lát, cô gái đeo kính đen nài nỉ, tiếng nói rõ hơn, Không phải tin tức, vợ bác sĩ nói, rồi như có một ý nghĩ chợt đến với bà, Mấy giờ rồi, bà hỏi, nhưng bà biết không ai có thể trả lời bà. Nút vặn tiếp tục tìm thấy tiếng ồn từ cái máy nhỏ, rồi ổn định, đó là một bài hát, một bài hát chẳng đáng kể, nhưng người mù trong phòng dần dần tụ tập lại, không xô đầy, họ ngừng ngay khi cảm thấy có sự hiện diện phía trước và đứng yên đó, lắng nghe, mắt mở lớn hướng về giọng đang hát, vài người khóc, có lẽ chỉ vì người mù có thể khóc, nước mắt chảy như từ vòi ra. Bài hát kết thúc, phát thanh viên nói, Sau tiếng gõ thứ ba là bốn giờ. Một bà mù vừa cười vừa hỏi, Bốn giờ chiều hay bốn giờ sáng, như thể tiếng cười của bà làm bà đau khổ. Lén lút, vợ bác sĩ điều chỉnh đồng hồ của mình rồi lên dây, bốn giờ chiều, mặc dù xin thưa thật, đồng hồ không quan tâm, nó đi từ một tới mười hai, còn lại chỉ là ý nghĩ trong đầu óc con người. Tiếng gì nho nhỏ thế, nghe như, cô gái đeo kính đen hỏi, Tôi đây mà, tôi nghe họ nói trên radio là bốn giờ nên tôi lên dây đồng hồ, một thứ phản ứng tự động mà mình cứ hay làm, vợ bác sĩ chặn trước. rồi bà nghĩ chẳng đáng để rủi ro như thế, bà chỉ cần liếc đồng hồ đeo tay của người mù mới tới hôm nay, phải có người có đồng hồ còn chạy. Lúc đó bà nhận ra ông già đeo miếng vải đen che mắt có một cái, và giờ trên đồng hồ của ông đúng. Khi ấy bác sĩ yêu cầu, Kể cho chúng tôi tình hình ngoài đó ra sao. Ông già đeo miếng vải đen che mắt nói, Tất nhiên, nhưng tôi nên ngồi xuống đã, tôi mỏi chân lắm rồi. Ba, bốn người một giường, chia sẻ nhau trong dịp này, những người mù cố ngồi xuống, họ im lặng, rồi ông già đeo miếng vải đen che mắt kể cho họ những gì ông biết, những gì ông thấy bằng chính mắt ông hồi ông còn thấy, những gì ông tình cờ nghe được trong mấy ngày qua từ khi bắt đầu bệnh dịch tới khi ông bị mù.
Hai mươi bốn giờ đầu tiên, ông nói, nếu tin đồn loan khắp nơi là đúng, có hàng trăm vụ, tất cả giống nhau, tất cả đều cho thấy cùng triệu chứng, đều xảy ra tức khắc, đều không có dấu hiệu thương tích một cách khó hiểu, sắc trắng chói lòa trong vùng thị giác, trước sau đều không đau. Ngày thứ hai người ta nói số vụ giảm xuống, từ hàng trăm còn hàng chục vụ, vì thế Chính phủ lập tức tuyên bố rất có thể tình hình sẽ sớm kiểm soát được. Từ đây trở đi, ngoài vài lời bình phẩm không thể tránh khỏi, câu chuyện của ông già đeo miếng vải đen che mắt sẽ không còn được ghi theo từng chữ nữa, mà bị thay bằng cách sắp xếp lại lời kể của ông, đánh giá lại qua ngữ vựng chính xác và thích hợp hơn. Lý do cho sự thay đổi ngoài dự kiến này là ngôn ngữ được giữ khá trịnh trọng của người kể, hầu như khiến ông không đủ tư cách làm phóng viên bổ sung tin tức, dù ông quan trọng đến mấy, vì ngoài ông ra chúng ta chẳng có cách nào biết chuyện đã xảy ra ở thế giới bên ngoài, như một phóng viên bổ sung tin tức về các biến cố đặc biệt, như chúng ta đang nói, khi chúng ta biết mọi sự kiện chỉ có thể mô tả được với sự chính xác và thích hợp của từ ngữ được dùng. Trở lại với vấn đề đang có, vì thế Chính phủ loại bỏ các giả thuyết đặt ra ban đầu là đất nước đang bị một trận dịch vô tiền khoáng hậu quét qua, do một chứng bệnh nào đó gây nên nhưng chưa xác minh được tác nhân gây hậu quả tức thời, và hoàn toàn không có dấu hiệu báo trước về thời kỳ ủ bệnh hay âm ĩ. Thay vào đó, họ nói, theo quan điểm khoa học mới nhất và các giải thích hợp lý đã được cập nhật của chính quyền, họ đang đối phó với các tình huống trùng hợp vừa bất ngờ vừa rủi ro nhất thời, nhưng cũng chưa được xác minh, về khả năng phát triển của mầm bệnh, thông cáo của Chính phủ nhấn mạnh, khởi đầu từ phân tích các dữ kiện sẵn có, tới phát hiện tiềm năng của một hướng giải quyết rõ ràng và các dấu hiệu chứng tỏ là nó sắp hết. Một bình luận gia truyền hình nêu ra một ẩn dụ thích hợp khi ông so sánh nạn dịch, hay bất kỳ chữ nào, với mũi tên bắn lên không trung, khi lên tới điểm cao nhất, nó ngừng lại trong khoảnh khắc như treo trên đó, rồi bắt đầu theo quỹ đạo bắt buộc rơi xuống, nhờ trời phù hộ, và với viện dẫn ấy nhà bình luận trở lại với sự tầm phào của ngôn ngữ loài người và cái gọi là nạn dịch, sức hút của trái đất có khuynh hướng tăng vận tốc của mũi tên, cho tới khi ác mộng khủng khiếp đang hành hạ chúng ta rốt cuộc biến mất, câu này xuất hiện không ngớt trên truyền thông, và luôn kết thúc bằng công thức sùng kính cầu mong cho người mù bất hạnh có thể sớm phục hồi thị lực, trong khi đó hứa hẹn với họ tình đoàn kết của toàn xã hội, cả công lẫn tư. Trong quá khứ xa vời, các luận cứ và ẩn dụ tương tự đã được chủ nghĩa lạc quan dũng cảm của công chúng diễn giải thành câu tục ngữ như sau: “Gian nan có thuở, thanh nhàn có khi,” câu cách ngôn tuyệt vời của kẻ đã có cơ hội học hỏi từ những thăng trầm của cuộc đời và số phận, và chuyển sang phạm vi của người mù thì sẽ được nói như sau, Hôm qua thấy, hôm nay mù, ngày mai thấy lại, với một dấu chấm hỏi nhỏ trên câu thứ ba sau cùng, như tính thận trọng đã quyết định vào phút cuối, để phòng xa, thêm vào một chút hoài nghi đối với lời kết luận đầy hy vọng. Buồn thay, sự phù phiếm của niềm hy vọng đó chẳng bao lâu trở thành hiển nhiên, mong đợi của Chính phủ và tiên đoán của cộng đồng khoa học biến mất không để lại dấu vết. Chứng mù lan rộng, không như thủy triều bỗng tràn ngập và cuốn đi mọi thứ, mà như một ngàn lẻ một con lạch hỗn loạn âm ỉ thâm nhập từ từ làm ướt sũng đất, rồi chợt dìm nó hoàn toàn. Đối diện với thảm họa xã hội đã tới mức ngấu nghiến, nhà chức trách vội tổ chức các hội nghị y khoa, nhất là hội nghị họp các bác sĩ nhãn khoa và thần kinh lại. Vì phải mất thời gian tổ chức, một đại hội mà nhiều người kêu gọi không bao giờ được triệu tập, nhưng bù vào đó là các hội thảo chuyên đề, hội nghị chuyên đề, thảo luận bàn tròn, một số mở rộng cho công chúng, số khác họp kín. Kết quả chung về sự phù phiếm hiển nhiên của các cuộc tranh luận và sự cố nhiều ca mù bất chợt trong các buổi họp, khi diễn giả hét lên, Tôi mù, tôi mù, lập tức khiến cho hầu hết báo chí, đài phát thanh và truyền hình hết quan tâm tới các sáng kiến đó, ngoại trừ cách cư xử thận trọng và đáng khen về mọi khía cạnh của một số cơ quan truyền thông, sống dựa trên mấy chuyện giật gân đủ loại, trên may mắn và bất hạnh của kẻ khác, không sẵn sàng bỏ lỡ cơ hội tường thuật trực tiếp, với mọi kịch tính hứa hẹn của tình huống, chẳng hạn như tường thuật về chứng mù bất thần của một giáo sư nhãn khoa.
Bằng chứng suy sụp tinh thần nhanh chóng nói chung được chính Nhà nước cung cấp, chiến lược của họ thay đổi hai lần trong vòng sáu ngày. Thoạt tiên, Chính phủ vững tin có thể hạn chế chứng bệnh bằng cách nhốt người mù và người bị lây trong các khu riêng, như nhà thương điên mà chúng ta thấy mình trong đó. Rồi số ca mù tăng không ngừng khiến vài thành viên có thế lực trong Chính phủ sợ là sáng kiến của nhà nước không đáp ứng được với số lượng công việc trong tay, và có thể dẫn tới một giá đắt về chính trị, để bảo vệ ý kiến cho rằng mỗi gia đình tự giữ người mù trong nhà mình, tuyệt đối không cho phép họ ra đường, để khỏi làm xấu thêm tình trạng lưu thông đã khó khăn hoặc xúc phạm tới tính nhạy cảm của người còn thị lực và những kẻ thờ ơ với các ý kiến trấn an ít nhiều, tin rằng chứng mù trắng đang lây lan bằng mắt nhìn, như mắt quỷ. Thật vậy, quả là không chính đáng khi mong đợi bất cứ phản ứng nào khác từ một kẻ đang mải suy nghĩ, buồn, vui hay dửng dưng, nếu những suy nghĩ ấy vẫn còn, đột nhiên hắn thấy sự thay đổi trên nét mặt của một người đang đi về phía hắn, khuôn mặt cho thấy mọi dấu hiệu kinh hoảng, rồi nghe tiếng kêu không thể tránh khỏi đó, Tôi mù, tôi mù. Chẳng dây thần kinh nào chịu nổi. Tệ nhất là cả gia đình, nhất là các gia đình ít người, nhanh chóng trở thành gia đình mù, chẳng còn ai hướng dẫn hay săn sóc họ, cũng như bảo vệ cho láng giềng khỏi bị họ lây, và rõ ràng là những người mù này, dù cha mẹ hay con cái có chu đáo đến mấy, cũng không thể tự săn sóc lẫn nhau, nếu không họ sẽ gặp cùng số phận như người mù trong bức tranh, cùng đi, cùng ngã, và cùng chết.
Đối phó với tình hình này, Chính phủ chẳng có giải pháp nào khác ngoài cách cấp kỳ rút lại quyết định cũ, mở rộng tiêu chuẩn đã quy định về nơi và chỗ có thể bị trưng dụng, kết quả là sử dụng ứng biến tức khắc các xưởng máy xếp xó, nhà thờ bỏ phế, sân chơi thể thao và nhà kho để trống. Hai ngày qua đã có bàn tới việc dựng lều quân đội, ông già đeo miếng vải đen che mắt nói thêm. Lúc đầu, lúc mới bắt đầu, vài tổ chức từ thiện vẫn đưa người tình nguyện tới giúp người mù làm giường, dọn dẹp nhà vệ sinh, giặt quần áo, chuẩn bị thức ăn cho họ, các chăm sóc tối thiểu mà không có thì cuộc sống sẽ sớm trở nên hết chịu nổi, ngay cả đối với người có thể thấy. Những người đáng mến này bị mù lập tức nhưng ít nhất cử chỉ quảng đại của họ sẽ đi vào lịch sử. Có người nào trong số họ tới đây không, ông già đeo miếng vải đen che mắt hỏi, Không, vợ bác sĩ đáp, không ai tới cả, Có lẽ là tin đồn, Còn phố xá và giao thông thế nào, người đàn ông mù đầu tiên hỏi, nhớ tới chiếc xe của ông và của anh lái tắc xi đã đưa ông đến phòng mạch và giúp ông đào huyệt, Giao thông trong tình trạng hỗn loạn, ông già đeo miếng vải đen che mắt đáp, rồi kể chỉ tiết vài vụ tai nạn và vài ca cụ thể. Lần đầu tiên một tài xế xe buýt bỗng bị mù lúc đang lái xe trên đường, mặc dù có người chết và bị thương vì thảm họa này, thiên hạ vẫn chưa thấy lý do để chú ý lắm, phải nói là vì thói quen, và viên giám đốc quan hệ công chúng của công ty vận tải cảm thấy có thể tuyên bố, không chần chừ, rằng tai họa do lỗi lầm con người gây ra, hẳn nhiên đáng tiếc, nhưng xét cho cùng cũng chả tiên đoán được, giống như chứng đột quỵ trong trường hợp của người chưa bao giờ bị đau tim. Viên giám đốc giải thích, Nhân viên của chúng tôi, cũng như các bộ phận máy móc và điện của xe buýt, nằm trong chế độ khám định kỳ nghiêm ngặt, như có thể thấy qua mối liên hệ nhân quả trực tiếp và rõ ràng trong tỉ lệ tai nạn cực thấp mà xe của công ty chúng tôi có dính líu nói chung. Lời giải thích cực nhọc này xuất hiện trên báo, nhưng thiên hạ bận tâm chuyện khác hơn là lo về một tai nạn xe buýt bình thường, vả lại, nếu thắng hỏng thì cũng chả tệ hơn. Hơn nữa, hai ngày sau, chính nguyên do này lại gây ra một tai nạn khác, nhưng thế gian vẫn vậy, sự thật thường phải ngụy trang thành giả dối để đạt tới mục đích của nó, tin đồn loan ra rằng anh tài xế đã mù từ trước. Không có cách nào thuyết phục công chúng về việc đã thật sự xảy ra, và chẳng bao lâu hậu quả rành rành, ngay lập tức thiên hạ ngưng sử dụng xe buýt, họ nói thà mình bị mù còn hơn chết vì kẻ đã mù. Tai nạn thứ ba không lâu sau đó và cùng lý do, liên can tới một chiếc xe không chở hành khách, làm nảy sinh lời bình phẩm ẩn dưới giọng quen thuộc ra điều biết chuyện như sau, Đáng lẽ có thể là tôi. Những người nói như thế không tưởng tượng nổi là họ nói đúng. Khi cả hai phi công bỗng hóa mù cùng lúc, một chiếc phi cơ thương mại rơi và bốc cháy ngay khi chạm đất, làm chết tất cả hành khách và phi hành đoàn, tuy trong trường hợp này các bộ phận máy móc và điện hoạt động hoàn toàn tốt, như cái hộp đen ghi lại diễn biến của chuyến bay, vật sống sót duy nhất, về sau tiết lộ. Thảm kịch cỡ này không giống như một tai nạn xe buýt bình thường, kết quả là kẻ nào còn ảo tưởng đều sớm tỉnh ngộ, từ đó không còn nghe tiếng máy nữa, và chẳng có cái bánh xe nào, lớn hay nhỏ, nhanh hay chậm, còn lăn nữa. Những kẻ trước kia có thói quen than phiền về vấn đề lưu thông ngày càng tăng, người đi bộ thoạt nhìn có vẻ không biết họ đang đi đâu vì xe cộ, đang đậu hay di chuyển, thường xuyên cản bước họ, tài xế lái vòng quanh khu nhà vô số lần trước khi cuối cùng tìm được một chỗ đậu xe, bây giờ họ trở thành người đi bộ và bắt đầu phản đối vì cùng lý do, sau khi đã than thở xong, tất cả mọi người bây giờ phải hài lòng, ngoại trừ sự kiện hiển nhiên là vì không còn ai dám lái xe, ngay cả để đi từ A tới B, ô tô, xe tải, mô tô, thậm chí xe đạp, vương vãi hỗn loạn khắp thành phố, vứt bỏ ngay tại chỗ khi lòng sợ hãi thắng tính sở hữu, bằng cớ là hình ảnh lố bịch của chiếc xe kéo treo lủng lẳng một chiếc xe khác trên trục trước, có thể người đàn ông đầu tiên hóa mù là anh lái xe kéo. Tình hình tệ hại cho mọi người, nhưng đối với người bị mù là thảm họa, vì, theo cách nói dạo này, họ không thấy chỗ đặt chân. Thật tội nghiệp khi nhìn họ tông vào xe cộ bỏ phế, chiếc này tới chiếc khác, bầm ống quyển, vài người ngã, năn nỉ, Có ai giúp tôi đứng lên với, nhưng cũng có kẻ, vì bản tính hung ác hay vì tuyệt vọng, đã chửi rủa và gạt đi mọi bàn tay tử tế đưa ra giúp họ, Để tao yên, rồi sẽ tới lượt mày, khi ấy người có lòng trắc ẩn hoảng sợ và trốn nhanh, biến mất vào màn sương trắng dày đặc, chợt hiểu sự rủi ro mà lòng tử tế của họ đặt họ vào, có lẽ họ sắp hóa mù chỉ trong vài bước tới.
Tình hình ngoài ấy như vậy, ông già đeo miếng vải đen che mắt kết thúc câu chuyện, và tôi không biết hết mọi việc, tôi chỉ kể những gì tôi thấy được bằng chính hai mắt mình, tới đây ông chợt cắt ngang, do dự, rồi đính chính, Không phải bằng hai mắt, vì tôi chỉ có một, bây giờ một cũng không, ôi dào, tôi vẫn còn một nhưng nó vô dụng, Tôi chưa hề hỏi vì sao ông không gắn mắt thủy tinh mà lại đeo cái băng đó, Ông bảo tôi gắn mắt thủy tinh để làm gì, ông già đeo miếng vải đen che mắt hỏi, Bình thường thôi, vì như thế nom hay hơn, ngoài ra nó còn vệ sinh hơn nhiều, có thể gỡ ra, rửa sạch rồi đeo vào giống như răng giả, Thưa ông vâng, nhưng ông bảo bây giờ sẽ như thế nào nếu ngày nay mọi người mù bị mất cả hai mắt, tôi nói là mất thật, rồi họ đeo hai con mắt thủy tinh đi loanh quanh thì hay ho cái gì, Ông nói đúng, chả hay ho gì, Khi mọi người rốt cuộc hóa mù cả, có vẻ rồi sẽ xảy ra, ai còn chú ý tới thẩm mỹ nữa, còn về vệ sinh, bác sĩ nghĩ xem, ông hy vọng vệ sinh gì trong chỗ này, Có lẽ chỉ trong thế giới người mù thì sự việc mới thật là nó, bác sĩ nói, Còn người ta thì sao, cô gái đeo kính đen hỏi, Người ta cũng vậy, sẽ không còn ai ở đó nhìn họ, Tôi chợt nảy ra một ý, ông già đeo miếng vải đen che mắt nói, mình thử chơi một trò gì cho qua thời giờ, Làm sao mình chơi nếu mình không thấy mình đang chơi cái gì, vợ người đàn ông mù đầu tiên hỏi, Ồ, không hẳn là trò chơi, mỗi người trong chúng ta phải kể mình thấy gì ngay lúc mình hóa mù, Chuyện đó có thể gây lúng túng, một người vạch ra, Ai không muốn tham dự trò chơi thì có thế im lặng, điều quan trọng là không ai được bịa chuyện, Thí dụ cho chúng tôi xem, bác sĩ nói, Tất nhiên, ông già đeo miếng vải đen che mắt đáp, tôi hóa mù khi nhìn vào con mắt mù của mình, Ông nói thế nghĩa là sao, Đơn giản lắm, tôi cảm thấy như bên trong ổ mắt trông bị sưng tấy lên và tôi gỡ băng mắt vì tò mò, rồi đúng lúc đó tôi mù, Nghe như chuyện ngụ ngôn, một giọng vô danh nói, con mắt không chấp nhận sự không tồn tại của chính nó, Còn tôi, bác sĩ nói, tôi ở nhà tra cứu vài cuốn sách tham khảo về nhãn khoa, chính là vì việc đang xảy ra này, điều tôi thấy sau cùng là tay tôi đặt trên một cuốn sách, Hình ảnh cuối cùng của tôi thì khác, vợ bác sĩ nói, là bên trong xe cứu thương lúc tôi giúp chồng tôi vào, Tôi đã giải thích với bác sĩ chuyện của tôi, người đàn ông mù đầu tiên nói, tôi ngừng ở đèn lưu thông, đèn đỏ, có người băng qua đường, ngay lúc đó tôi hóa mù, rồi anh chàng chết hôm nọ đưa tôi về nhà, tất nhiên tôi không thấy mặt anh ta, Còn tôi, vợ người đàn ông mù đầu tiên nói, lần cuối tôi nhớ là nhìn thấy cái khăn tay của tôi, tôi đang ngồi ở nhà và khóc thảm thiết, tôi đưa khăn tay lên mắt rồi hóa mù ngay lúc đó, Trường hợp tôi, cô nhân viên phòng mạch nói, tôi vừa mới vào thang máy, tôi đưa tay ra bấm nút rồi bỗng dưng không thấy nữa, các ông bà tưởng tượng cành khốn khổ của tôi, kẹt trong đó một mình, tôi không biết mình đi lên hay xuống, và tôi không tìm được nút mở cửa, Hoàn cảnh tôi đơn giản hơn, anh dược tá nói, tôi nghe nói người ta hóa mù, rồi tôi bắt đầu tự hỏi nếu tôi cũng hóa mù thì như thế nào, tôi nhắm mắt để thử rồi lúc mở mắt ra thì tôi mù, Nghe giống chuyện ngụ ngôn nữa, giọng vô danh xen vào, nếu anh muốn mù thì anh mù. Họ lặng im. Những người mù khác đã về giường họ, một việc không dễ, vì dù họ biết số giường của mình, nhưng họ phải bắt đầu đếm từ đầu phòng, từ số một lên hay từ số hai mươi xuống, lúc ấy họ mới chắc là đến nơi họ muốn đến. Khi tiếng họ lẩm bẩm đếm tắt dần, đều đều như cầu kinh, cô gái đeo kính đen kể chuyện xảy đến cho cô, Tôi ở trong khách sạn với một ông nam trên người tôi, tới đó cô lặng im, cô cảm thấy quá xâu hổ khi kể chuyện cô làm ở đó, rằng cô thấy mọi thứ trắng xóa, nhưng ông già đeo miếng vải đen che mắt hỏi, Rồi cô thấy mọi thứ trắng xóa, Đúng, cô đáp, Có lẽ chứng mù của cô khác với chúng tôi, ông già đeo miếng vài đen che mắt nói. Người duy nhất còn kể là cô dọn phòng, Tôi đang làm giường, ở đó lúc trước có một người hóa mù, tôi giơ tấm trải màu trắng lên trước mặt rồi trải ra, nhét nó vào bên hông như vẫn làm, và khi tôi dùng cả hai tay vuốt thẳng nó, bỗng dưng tôi không thấy nữa, tôi nhớ tôi đang vuốt thẳng tấm trải giường, rất chậm, tấm trải dưới cùng, cô nói thêm, như thể điều ấy có ý nghĩa đặc biệt nào đó. Mọi người đã kể chuyện lần cuối mình thấy chưa, ông già đeo miếng vải đen che mắt hỏi, Tôi sẽ kể chuyện của tôi nếu không còn ai, giọng vô danh nói, Nếu còn thì người đó sẽ kể sau anh, cứ kể đi, Vật cuối cùng tôi thấy là một bức tranh, Bức tranh, ông già đeo miếng vải đen che mắt lặp lại, bức tranh ở đâu, Tôi tới viện bảo tàng, bức tranh một cánh đồng bắp có mấy con quạ và cây bách với một mặt trời cho ấn tượng là được làm thành từ nhiều mảnh mặt trời khác, Nghe như một họa sĩ Hà Lan, Tôi nghĩ vậy, nhưng trong tranh có một con chó đang chết đuối, đã chìm phân nửa, tội nghiệp con vật, Nếu như vậy phải là của một họa sĩ Tây Ban Nha, trước ông ta chưa ai vẽ con chó trong hoàn cảnh đó, sau ông ta không họa sĩ nào có can đảm thử. Có thể, và có một chiếc xe đầy cỏ khô do ngựa kéo qua dòng nước, Bên trái có nhà không, Có, Vậy thì đó là của một họa sĩ người Anh, Có thể, nhưng tôi không nghĩ vậy, vì cũng có một bà bế con, Mẹ và con trong tranh là thường lắm, Đúng, tôi cũng thấy thế, Tôi không hiểu trong một bức tranh sao lại có nhiều hình ảnh và của nhiều họa sĩ khác nhau như vậy, Và có vài người đang ăn, Trong lịch sử nghệ thuật có rất nhiều bữa ăn trưa, ăn vặt buổi chiều và ăn tối, chỉ tiết này tự nó không đủ cho mình biết ai đang ăn, Tổng cộng có mười ba ông, À, vậy thì dễ, cứ kể tiếp đi, Cũng có một phụ nữ tóc vàng khỏa thân ở bên trong một vỏ ốc đang nổi trên biển, chung quanh cô ta đầy hoa, Hẳn nhiên là người Ý, Và có một trận đánh nhau, Giống như trong các bức tranh vẽ yến tiệc và mẹ bế con, mấy chỉ tiết này không đủ để tiết lộ ai vẽ bức tranh, Có nhiều xác chết và người bị thương, Tự nhiên thôi, không sớm thì muộn, trẻ con đều chết hết, cả lính tráng nữa, Và một con ngựa hoảng sợ, Mắt nó sắp rơi khỏi tròng, Đúng thế, Mấy con ngựa là như vậy, còn hình ảnh nào trong bức tranh của anh nữa, Trời ơi, tôi sẽ không bao giờ biết, tôi mù ngay lúc tôi đang xem con ngựa. Sợ hãi có thể gây mù, cô gái đeo kính đen nói, Đúng lắm, không còn gì đúng hơn, chúng ta đã mù lúc chúng ta hóa mù, sợ hãi làm chúng ta mù, sợ hãi sẽ giữ chúng ta mù, Ai đang nói đó, bác sĩ hỏi, Một người mù, giọng nói đáp, một người mù thôi, vì tất cả chúng ta nơi này đều mù. Khi ấy ông già đeo miếng vải đen che mắt hỏi, Cần bao nhiêu người mù để làm nên sự mù lòa, Chẳng ai trả lời được. Cô gái đeo kính đen yêu cầu ông bật radio, có thể có tin tức. Họ hoãn tin tức lại, trong khi đó họ nghe một chút nhạc. Một lúc sau vài người mù xuất hiện ở cửa phòng, một người nói, Tiếc quá không ai nghĩ đem theo cây guitar. Tin tức không có gì khích lệ lắm, tin đồn lan ra rằng sắp thành lập một chính phủ đoàn kết và cứu trợ toàn quốc.

Bình luận