Chapter 13

icon
icon
icon

Buổi sáng khi tập xong bài dưỡng sinh quen thuộc với 199 cái vẩy tay, ông hai Lạng ngồi bên ấm trà do con dâu vừa pha. Thông thường ông sẽ thưởng thức xong tuần trà thứ nhất, khi đó sẽ bắt đầu chậm rãi ăn sáng và ngắm mấy giò phong lan treo ngoài cửa. Nhà có bốn người nhưng nhiều lúc việc ăn uống có phần cách rách, thằng cháu đích tôn Tạ Đình Yến xơi bát cháo sườn cho kịp giờ đến trường, vợ chồng con trai và con dâu thường ăn xôi ngô bung cho chắc dạ. Riêng ông bây giờ ăn gì phải có nước để tránh nghẹn, chính vì thế bún, miến, phở hoặc bánh cuốn là các món chủ đạo. Dẫu không cầu kì về chuyện ăn uống, nhưng ông thích món ăn không quá nhiều, không quá mỡ và nhìn phải ngon, bởi không phải người ăn lấy chắc, mặc lấy bền, ông thích món ăn nhìn phải sạch sẽ, mùi vị hấp dẫn mới bắt đầu thưởng thức. Hôm trước định ghé hàng bún dọc mùng, tuy nhiên nhìn thấy người bán hàng để móng tay dài và xỉn màu, ông chẳng còn cảm hứng để ngồi ăn, bởi nghĩ đến cảnh cô ta bưng bát bún cho khách còn móng tay chạm vào nước dùng là thấy hãi. Dù không hỏi con trai về công việc, tuy vậy ông thở phào nhẹ nhõm khi biết Tạ Đình Cân hiện làm cho nhà Thành Phát bên phố Hàng Đường, bởi họ là những người làm ăn có uy tín. Lần trước khi con ông dồn tiền, vàng góp vốn làm ăn cùng một gã ở bên phố Đường Thành ông đã cảm thấy có sự bất an, bởi trò đời chưa làm thợ đòi làm thầy là hỏng ráo. Nhân bảo như thần bảo, việc làm ăn chưa nổi 1 năm đã bị công an xích tay tống vào hoả lò. Thói đời chọn bạn mà chơi, khi ra toà thấy kẻ làm cùng đổ hết mọi tội lỗi lên đầu con trai, ông hai Lạng nhớ đến câu nói của cụ thân sinh ra mình là trạng sư Tạ Đình Lường khi còn sống “khôn ngoan đến cửa quan sẽ biết”. Biết con trai đã nhận được bài học đắt giá, ông chưa hề nhắc lại chuyện cũ bởi mỗi người phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Sau khi thưởng thức tuần trà thứ hai, ông hai Lạng chậm rãi mở cửa hàng bắt đầu một ngày làm việc cần mẫn để thấy mình có ích.

Khi vừa hoàn thành bức chân dung cho một bà người Pháp, ông hai Lạng chọn chiếc khung gỗ màu sậm để lồng vào. Không giống người Việt hay truyền thần bức ảnh người đã khuất để thờ, chiều qua trong lúc vác máy ảnh chụp phố phường, bà người Pháp đứng quan sát và chụp liên tục khi ông đang vẽ. Điều khiến bà người Pháp ngạc nhiên hơn cả, bởi ông dùng tiếng Pháp mời bà vào cửa hàng tham quan và nghe giới thiệu. Dù học tiếng Pháp đã lâu, nhưng từ ngày người Pháp rút qua cầu Long Biên vào năm 1954, hơn bốn chục năm ông lại có dịp sử dụng ngôn ngữ yêu thích. Cuộc nói chuyện giữa hai người như thân quen lâu ngày gặp lại, bà khách người Pháp mở ví lấy bức ảnh bà mẹ hiện vẫn sống tại Paris đưa nhờ ông truyền thần lại để mang về làm quà. Hoàn thành xong bức truyền thần cho bà khách người Pháp, dù không hét giá cao nhưng quá vui mừng và hài lòng trước tác phẩm, bà khách vẫn gửi cho ông hai Lạng số tiền tương đương với một chỉ vàng. Không vội bắt tay vào việc truyền thần bức tiếp theo, ông hai Lạng bày bàn cờ khi thấy người bạn già chống gậy từ bên Hàng Điếu sang chơi và đàm đạo. Là bạn từ thủa còn học chữ nho và tiếng Pháp cùng nhau, người bạn già của ông vẫn sống phong lưu bởi thừa hưởng nguyên căn nhà mặt phố cả tầng trên lẫn tầng dưới không phải chung đụng cùng ai.

Trông người lại ngẫm đến ta, dù đang suy tính từng đường đi, nước bước trên ván cờ, ông hai Lạng vẫn ngậm ngùi vì ngôi nhà từ thời các cụ để lại giờ thành nơi sống chén chúc của nhiều hộ gia đình khác nhau. Có lẽ việc sang tên, đổi chủ bắt đầu từ đời trạng sư Tạ Đình Lường là thân sinh ra ông, bởi lúc mất đi cụ để lại hai bà vợ cùng đàn con đông đúc. Theo lệ bà cả cùng mấy người con ở tầng trên, bà hai tức mẫu thân của ông và mấy người ăn kẻ ở sống dưới tầng một. Sau này người anh cùng cha khác mẹ là ông trưởng Hoa đã cùng ông chia nhau mặt tiền ngôi nhà để kiếm kế sinh nhai. Khi những người anh cùng cha khác mẹ sống trên gác lần lượt bán phần của mình chuyển đi, ông hai Lạng biết nếp nhà chẳng còn như xưa. Ngày mẫu thân ông mắc bệnh, để có tiền thuốc thang, căn buồng liền kề với gian hàng mặt phố được bán nhưng rồi thuốc tốt chẳng giữ được khi số trời đã hết. Sau đó ít lâu căn phòng vốn dành cho bà vú ở sát nhà vệ sinh cũng sang tên cho chủ mới, người mua không ai khác chính là mẹ cô Thoạt bây giờ. Mải đắm chìm theo dòng suy nghĩ, lần đầu tiên ông hai Lạng bị chiếu tướng dù chưa đến thế cờ tàn, ngẫm cuộc đời như một ván cờ, ông gọi con dâu ở bên ngoài rót hai chén trà nóng để cùng đàm đạo với người bạn già. Buổi sáng khi thưởng trà và ngắm những giò phong lan, ông hai Lạng nghe tiếng con chim khách từ đâu bay vào đậu trên nóc tủ hót nên cho là điềm lành đón khách quý. Vốn quan niệm chim sa, cá nhảy vì thế ông để con chim tự do bay lượn trong nhà trước khi ngược trở ra bay về phía xa, khi thấy người bạn già ghé chơi cờ, ông thấy ứng vào tiếng hót của con chim khách. Tuy nhiên điều ông bất ngờ hơn thế đã đến, lúc tiễn người bạn già một đoạn đường ngắn, khi quay về cửa hàng ông như thầm reo lên vì thấy bà Diệu Thuần ghé thăm mình.

Trong lúc ông sóng đôi cùng người bạn già, bà Diệu Thuần đã lấy chiếc bình gốm ở góc nhà rồi bắt đầu cắm bó hoa sen, theo như bà giải thích, hương sen thơm ngát khiến ông cảm thấy thư thái đầu óc khi truyền thần. Tuy không thấy bà Diệu Thuần nói ra, ông hai Lạng biết bà có ý trách khéo vì cửa hàng nhỏ của ông toàn mũi thuốc lá được bắt nguồn từ chiếc tẩu hiếm khi rời khỏi miệng. Biết bà Diệu Thuần là khách quý của bố chồng, chẳng cần ông hai Lạng lên tiếng, cô Nụ đã pha một cốc nước sấu rồi bưng vào đặt lên bàn, sau vài câu chào hỏi xã giao, cô lễ phép xin được quay ra phục vụ khách hàng của mình. Một buổi sáng với những điều tốt lành, gặp những người mình hợp chuyện, điều đó giúp ông hai Lạng thấy bớt nhọc lòng khi nghĩ về những chuyện đã qua. Mặc cho bên ngoài đường phố tấp nập, trong cửa hàng truyền thần rộng hơn 4,5 mét vuông, hai mái đầu bạc ngồi nói chuyện vô cùng tâm đầu ý hợp. Kể từ ngày hai người quen nhau, đã tròn nửa thế kỷ trôi qua cùng bao biến động, giờ đây họ dành cho nhau tình cảm trân quý bởi quỹ thời gian của mỗi người đâu còn nhiều nhặn gì. Dù ông hai Lạng nhiệt tình mời mọc, nhưng bà Diệu Thuần từ chối không ở lại dùng bữa, không nỡ để bà về bên phố Bát Đàn một mình lúc trưa nắng, ông tiễn bà một đoạn khiến cả hai dùng dằng hồi lâu.

Buổi trưa nhịp sống như chậm lại, mấy người phụ nữ đi mua lông gà, lông vịt cùng đồ đồng nát ngồi dựa lưng vào gốc cây để tận dụng bóng mát, họ mang cơm nắm ra ăn rồi tranh thủ ngủ trưa trong giây lát, cách đó không xa có người chuyên hàn nồi, hàn xoong vẫn kiên trì đạp xe kiếm khách, bóng người và xe đạp đổ dài theo bóng nắng. Ông hai Lạng kéo chiếc cửa xếp rồi khoá lại, nhìn sang cửa hàng của ông trưởng Hoa vẫn chưa có người tiếp quản, ông thở dài vì biết đám con của người đã khuất còn đang mải tranh giành nhau nên chưa tìm được tiếng nói thống nhất. Ngày trước ông trưởng Hoa luôn tự hào vì đông con nhiều cháu, nhưng hoá ra khi ông ý nằm xuống cũng là lúc mọi mâu thuẫn được dịp bùng phát. Nghĩ đến hồi Tạ Đình Cân phải đi tù, mấy người con ông trưởng Hoa dù sống ngay trên gác chẳng một lời hỏi thăm, ông hai Lạng biết chẳng trông mong gì với đám con cháu họ Tạ.

Bình luận