Dành cả buổi chiều tập trung vào những bức vẽ truyền thần do khách đặt, nhưng tâm trí của ông hai Lạng vẫn để ở nơi khác. Hôm trước dạo phố thấy có nhiều cửa hiệu tráng rửa ảnh mọc lên, chưa kể đội ngũ chụp ảnh dạo hay đứng trước đền Ngọc Sơn, công viên Thống Nhất và đền Quán Thánh, dự cảm về việc nghề truyền thần sắp bước vào lúc thoái trào khiến ông thoáng buồn. Vẫn biết có bình minh tất có hoàng hôn, nhưng nếu những gì xưa cũ nếu không bảo tồn, sau này thế hệ con cháu chỉ ôn cố tri tân bằng những lời kể phỏng có ích gì. Ông hai Lạnh nhớ rõ, trước khi mình sinh ra, vào năm Kỷ Mùi (1919), dưới triều vua Khải Định, khoa thi Nho học cuối cùng được tổ chức để từ đó những người theo đường khoa cử sẽ buông bút lông cầm bút sắt, chẳng thể ông Tú Xương đã từng viết:
“Nghe nói khoa này sắp đổi thi
Các thầy đồ cổ đỗ mau đi!
Dẫu không bia đá còn bia miệng
Vứt bút lông đi, giắt bút chì!”
Tiếc cho con trai chẳng nối nghiệp để nhất nghệ tinh, nhất thân vinh, tuy vậy ông biết chẳng thể nói được gì khi đã vào tuổi xưa nay hiếm. Mùa hè tiếng ve râm ran khiến người ta như bức bối hơn, buổi chiều mất điện nhưng nhờ ánh nắng chan hoà nên ông vẫn cặm cụi hoàn thành thêm một bức truyền thần cho khách. Thời còn khoẻ chân, khoẻ tay, mỗi bức truyền thần ông chỉ vẽ trong ba tiếng là xong, bây giờ mắt kém, tay run nên cả buổi chiều được một bức là thấy mừng rỡ. Có lẽ ít ai ngờ rằng một kĩ sư canh nông như ông khi về hưu trở thành nghệ nhân vẽ truyền thống, điều này chỉ có được nhờ khi xưa ông thành thạo cầm, kì, thi, hoạ. Món cờ tướng ông vẫn thường chơi như một cách tu tâm dưỡng tính, bởi người chơi cờ giỏi phải biết tiến, lùi đúng lúc, riêng món đàn từ lâu ông chẳng đụng đến vì không còn thấy hứng thú phiêu du trên từng nốt nhạc. Việc làm thơ hay viết tạp văn thường được ông duy trì như một thói quen, tuy nhiên sau vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm vào năm 1955, ông đã dừng việc viết lách bởi nhìn thấy những rắc rối có thể gặp phải. Hoàn thành nốt những việc còn lại cho bức truyền thần, nhìn ra bên ngoài trời vẫn sáng rõ dù đã sắp 6 giờ tối. Chậm rãi cho thuốc bào chiếc tẩu, ông hai Lạng châm lửa hút rồi nhấc chiếc ghế ra ngồi ngay ngoài cửa ngắm dòng người qua lại. Chỉ cần nhìn mọi người tất tả ngược xuôi, nhưng ông đoán được ai là người an nhàn hay vất vả. Thậm chí nhìn mấy người đi lê dép quèn quẹt hay chúi đầu về phía trước, ông tin chắc họ chẳng phải là người an nhàn, sung sướng. Trong lúc nhà cô Thoạt đang chuẩn bị dọn hàng bán tối, ông chợt nhớ có lần đã xem tướng và nhận xét gã Nguyễn Bỉnh Khiêm chồng cô ý là tướng bần tiện nên chẳng làm nên nghiệp lớn. Dẫu không theo nghề tướng số, nhờ chăm đọc sách cộng thêm kinh nghiệm nhìn người, đến bây giờ ông tự hào vì chẳng mấy khi nhìn sai người.
Ra hiệu cho con trai dựng xe máy ngay vỉa hè và ngồi cạnh mình, ông hai Lạng giải thích do nhà chật lại mùa hè, tự dưng đưa xe máy vào nhà khi máy còn nóng sẽ bốc mùi khét lẹt, đó là chưa kể thằng cu dễ bị bỏng bô xe máy. Chẳng cần nói đâu xa, đầu phố có người bị bỏng bô đã dẫn đến sâu quảng, do vậy cẩn tắc vô ưu. Chỉ tay vào trong cửa hiệu, ông hai Lạng giải thích, đến một tuổi nào đó, người đàn ông phải là trụ đỡ của gia đình, thấy con trai im lặng châm lửa hút thuốc, do không muốn người khác nghe thấy, ông nhắc con trai sắp bước vào tuổi “Ngũ thập nhi tri thiên mệnh”nên chẳng còn trẻ khoẻ gì nữa để nghe người khác sai bảo, hãy tính dần đi là vừa. Dù yên tâm vì con trai có công ăn việc làm, chưa kể ông bà chủ là những người tử tế và giàu có nức tiếng ở Kinh kỳ Kẻ chợ. Mừng cho con trai có thu nhập đỡ đần vợ con, tuy thế dù chẳng nói ra ông vẫn thấy buồn nhiều hươn vui, bởi công việc con trai đang làm, nó chẳng khác gì việc của thằng kéo xe tay, thằng nhỏ chạy việc của những nhà tư sản thời trước. Đau một nỗi ngày trước những kẻ ăn, người ở xuất thân bần hàn, con ông sinh ra trong nhà gia thế lại trưởng thành qua chiến tranh có huân chương đỏ ngực, ai dè bước vào tuổi trung niên còn đi làm việc hèn mọn. Chẳng muốn làm phút thư giãn hiếm hoi của hai cha con thêm phần căng thẳng, ông hai Lạng khuyên Tạ Đình Cân hãy sống chậm nhưng làm sao phải thật ý nghĩa, lời vắn, ý dài nên ông mong con trai thấu hiểu. Không muốn để cha già phải phiền muộn, Tạ Đình Cân khẽ nói:
-Vâng, con sẽ không làm Thầy thất vọng thêm lần nữa.
Buổi chiều người tắm giặt, người nấu ăn khiến khoảng sân chung có phần chật chội, nhiều lúc ngồi ăn cơm với món đậu rán, nhưng mùi thịt bò xào hành tây, mùi mắm tép chưng hay mùi cá rán bay vào tận trong nhà. Có lẽ mùi cơm khê cùng mùi của bếp dầu vừa tắt vẫn khiến mọi người khó chịu nhất, bởi nhiều hộ tầng trên đi làm về muộn, họ không thể nhóm lò nên phải đun nấu bằng bếp dầu cho nhanh. Lúc mọi nhà quây quần bên mâm cơm, đó là khoảng thời gian yên bình sau tám giờ lao động vàng ngọc như báo đài hay nói. Khác với mấy hộ dưới tầng một bám mặt đường kiếm sống như câu “vỉa hè là của nhân dân anh hùng”, mấy hộ trên gác đều làm trong các cơ quan nhà nước, đặc biệt có một ông bác sĩ làm tại bệnh viện Việt Xô, nơi khám bệnh cho cán bộ cấp cao. Vốn không phân biệt vùng miền, nhưng ông hai Lạng thoáng buồn do con trai ông hay cô Thoạt, hầu hết đều chẳng có chí tiến thủ nên lấy việc kiếm tiền làm lẽ sống, những người trên gác dù làm công ăn lương có thu nhập không cao, nhưng họ đều có định hướng phấn đấu cho sự nghiệp rõ ràng dù nặng gánh cơm áo luôn hiện hữu. Không có hứng thú xem vô tuyến hay mấy bộ phim do con trai mượn hay thuê ở đâu đó, khi tắm giặt và ăn tối xong, ông hai Lạng đội mũ phớt chậm rãi bước ra ngoài vỉa hè. Khác với mọi lần thường đi bộ sang phố Bát Đàn, tối nay ông vẫy xích lô lên Nhà Thờ Lớn hay còn gọi là Nhà Thờ Chính ToàThánh Giuse. Khi tiếng chuông Nhà Thờ ngân vang báo hiệu buổi lễ đã kết thúc, ông hai Lạng đứng lặng lẽ bên cạnh tượng Đức Mẹ đợi đoàn người từ trong Thánh đường trở về, trong đó có bà Diệu Thuần đang chầm chậm bước xuống từng bậc trước thềm. Giống như mọi phụ nữ khác đi dự thánh lễ, bà mặc bộ áo dài màu sẫm và tết tóc nhìn toát lên vẻ thanh lịch. Thấy ông hai Lạng đón mình, bà Diệu Thuần mỉm cười nhưng ngạc nhiên, bởi đây không phải là lần đầu tiên hai người gặp nhau trước thánh đường.
Chưa vội gọi xe xích lô, hai ông bà chậm rãi đi dọc phố Nhà Thờ rồi rẽ phải để đi dạo dọc Bờ Hồ thơ mộng, đây là con đường qiuen thuộc ngày xưa ông hai Lạng từng sánh bước cùng cô nữ sinh trường Đồng Khánh. Trải qua một cuộc bể dâu, ông thấy mừng vì còn có dịp đi bên nhau dù chút nữa ai sẽ về nhà người đó. Vẫn một câu hỏi đã canh cánh trong lòng bao năm, bà Diệu Thuần nhắc lại:
-Có phải ngày xưa các cụ bên nhà ông vì không muốn con dâu là người theo đạo Công giáo, chính vì thế việc dạm ngõ không thành hiện thực.
Ông hai Lạng dù thèm thuốc nhưng đang sánh đôi cùng tri kỉ nên đành cầm chiếc tẩu không, vừa đi ông vừa nhớ lại giây phút hai người chẳng thể đẹp duyên vợ chồng, tất cả chỉ có thể lý giải bởi số trời đã định. Giá như ngày đó song thân bà Diệu Thuần không bắt ông phải cải đạo nếu muốn làm con rể, có lẽ cuộc tình đã cập bến hạnh phúc. Thật ra cuộc hôn nhân dự định tiến hàng vào tháng mười năm Nhâm Ngọ 1942, tuy nhiên do hai họ không thống nhất được khiến đôi trẻ đành rẽ duyên. Năm đó ông hai Lạng vừa sang tuổi 22 còn bà Diệu Thuần sang tuổi 17, đó là tuổi đẹp để yên bề gia thất. Cái lý của bố mẹ bà Diệu Thuần không phải thuyền theo lái, gái theo chồng, họ viện dẫn đến vua một nước như ngài Bảo Đại vẫn chấp nhập Nam Phương Hoàng Hậu là người theo đạo công giáo, chẳng lý gì một kĩ sư canh nông không học theo đấng quân vương. Dù là người hấp thu nền giáo dục tây học, nhưng thân sinh ông hai Lạng là trạng sư Tạ Đình Lường nghĩ khác, ông từ chối yêu sách nhà gái bởi nếu muốn làm dâu nhà họ Tạ, đương nhiên mọi việc phải do ông sắp đặt. Kết quả cho cuộc chiến của những vị thông gia tương lai biến thành hai đám cưới cách nhau một tháng, nhưng cô dâu và chú rể là những người khác hẳn. Với tâm lý con gái mình cành vàng lá ngọc phải cưới trước cho nhà họ Tạ biết tay, cuối năm đó tiểu thư Diệu Thuần lên xe hoa trong tiếng pháo nổ và đám cưới đậm chất Hà Thành, không những vậy tân lang và tân nương còn sánh đôi vào làm lễ cưới trong nhà thờ theo đúng nghi thức bên Công giáo. Để tỏ ra không hề kém cạnh, nhất là việc nhiều người biết hôn sự bất thành của con trai, trạng sự Tạ Đình Lường phao lên rằng vì có tranh chấp kiện tụng nên chẳng thể kết tình thông gia với nhà bên đó. Đầu năm Quý Mùi 1943, trạng sư Tạ Đình Lường đã kết tình thông gia với một bác sĩ ở Rue des Balances, tức phố Hàng Cân. Màn đối đáp qua lại khiến hai người rẽ sang hai hướng cho đến khi tứ thân phụ mẫu cùng bạn đời đã về nơi cao xanh, giờ đây họ đi bên nhau nốt quãng đời còn lại cùng những ngậm ngũi xen lẫn xót xa. Khi ông hai Lạng về đến con ngõ nhỏ, sau khi từ chối xơi món gà tần của cô Thoạt, lúc bước vào đến cửa nhà ông vẫn nghe thấy tiếng người con dâu hụt năm xưa tấm tắc khen:
-Đúng là gừng càng già càng cay.
Bình luận