Chapter 5

icon
icon
icon

Không đợi đồng hồ báo thức đổ chuông, Cân bước từ trên gác xép xuống dưới nhà. Buổi sáng con phố vắng hoe chỉ có vài chiếc xích lô chở mấy người đi có việc từ sớm, những cửa hàng, cửa hiệu đóng cửa im lìm đến tận 9 giừo sáng, chỉ có mấy hàng phở và quán ăn đầu phố là sáng đèn bởi họ phải làm hàng sớm. Ngồi ngay trước cửa hàng truyền thần, Cân lấy điếu thuốc châm lửa hút rồi lặng lẽ quan sát cảnh vật như còn ngái ngủ giống con người. Đã hai tháng trôi qua kể từ ngày trở về cuộc sống đời thừa, việc có một việc làm tử tế không hề đơn giản. Ngày xưa những người như anh được các cơ quam, xí nghiệp hồ hởi đón nhận dù chẳng có bằng cấp chuyên môn, việc khó chẳng cần nghĩ bởi có người khác làm, nhưng ngồi phòng thường trực là một người từ chiến trường trở về cũng khác hẳn. Thời thế đã đổi thay, khi mãn hạn tù thì dù trẻ hay cứng tuổi đều chẳng thể xin nổi việc, biết mình không còn là thanh niên để nghe người khác sai bảo, trong suy nghĩ của mình, Cân muốn làm việc gì đó tự mình quyết định như vậy tốt hơn. Lúc thấy vợ xách bếp than tổ ong ra gốc cây nhóm lò, Cân đứng dậy quay vào con ngõ nhỏ, bởi chút nữa cả khu phố sẽ mịt mù khói từ trên vỉa hè do nhiều nhà bắt đầu nổi lửa nhóm bếp. Vo tờ báo cũ đi về phía ngôi nhà vệ sinh, lúc ngang qua cửa nhà của vợ chồng Khiêm, Thoạt, chẳng hiểu sao Cân vô tình nhìn qua cánh cửa sổ khép hờ thấy người xưa mặc bộ quần áo ngủ nhàu nhĩ nằm dưới nền nhà đá hoa cho mát. Ở đâu mọi thứ thay đổi khônhg biết, nhưng những ngôi nhà thuộc khu phố cổ có những thứ chẳng hề chịu ảnh hưởng của thời gian. Đứng trước cánh cửa nhà vệ sinh đóng bằng gỗ tạp sơn xanh, sau này được gia cố thêm miếng tôn cho chắc chắn. Đây chính là nơi Cân đã hôn môi cô thiếu nữ hàng xóm tên là Thoạt khi xưa, thời gian hai chục năm có lẽ đã trôi qua, cánh cửa nhà vệ sinh dù đã hoen gỉ một tấm bản lề, nhưng về cơ bản nó vẫn là cánh cửa hồi đó.

Do chưa có công ăn việc làm, buổi sáng việc đưa con trai đi học bên phố Hàng Cót do Cân đảm trách, ngày anh bị bắt đi tù thì cu cậu còn bé, giờ đây sắp vào lớp 1 nên cu cậu hỏi đủ thứ chuyện trên trời dưới biển. Mừng vì mình có mặt khi con bắt đầu lớn khôn, tuy thế nghĩ đến cảnh vợ phơi mặt vỉa hè bòn mót từng hào và Thầy của mình sang tuổi 70 vẫn cặm cụi làm việc, tự dưng anh thấy mình là kẻ bất tài vô dụng. Hồi con bắt đầu đi học, dù trên phố Hàng Gà có lớp mẫu giáo, nhưng vợ anh ngại người ta dị nghị chuyện chồng đi tù nên chấp nhận đi sang phố Hàng Cót xin học cho con trai. Xét ra đó cũng là cách bảo vệ thằng bé trước miệng lưỡi thế gian, bởi trẻ con không đáng phải chịu những gì do người lớn gây ra. Đưa con vào lớp xong, lúc ngang qua hàng phở Cân nhớ đến 5000 đồng được vợ nhét vào túi dặn ăn một bát tái gầu 3000 đồng cho đủ chất, bởi mấy năm trong tù dù chẳng đến mức đói ăn nhưng thịt cá thuộc hàng hiếm. Tần ngần hồi lâu thấy tiếc tiền, Cân quyết định mua gói xôi trắng rắc chút muối vừng ăn cho chắc dạ. Không muốn quay về nhà để chứng kiến mọi người tất bật kiếm ăn còn mình sang tuổi 45 vẫn loay hoay chưa tìm được lối thoát, Tạ Đình Cân mím môi đi bộ đến con phố mang tên vị Đề Đốc nổi tiếng trong phong trào Cần Vương là Tạ Hiện. Ghé quán bia gần đó, chậm rãi thưởng thức vại bia mát lạnh rồi nhìn tấm biển ghi tên phố, dù đang buồn nhưng anh lại nghĩ vẩn vơ, tại sao cũng là họ Tạ nhưng bản thân mình chỉ là kẻ làm đâu hỏng đó chẳng nên cơm cháo gì. Vẫn biết mỗi con người có một số phận khác nhau, hồi còn ở trong tù nhiều đêm anh từng nghĩ, giá như trong trận chiến nào đó tại chiến trường B, nếu anh nằm xuống khéo gia đình dòng họ thơm lây vì là thân nhân liệt sĩ. Thời gian đầu vào tù khiến tinh thần khủng hoảng, nhưng nhờ bản lĩnh tôi luyện ngoài chiến trường nên anh đã vượt qua, chưa kể đám bạn tù không dám nhờn với người từng là lính chiến. Đêm qua lần đầu tiên được nằm hít hà mùi hương bồ kết trên mái tóc của vợ, anh cảm nhận rõ niềm hạnh phúc giống như ngày trở về từ chiến trường vậy.

Hà Nội chớm hè nhưng nắng đã ngập tràn trên những con phố, ngồi quán bia còn râm mát lúc này, bằng kinh nghiệm của mình nên Cân biết gần trưa bóng nắng sẽ đổ về đây. Ngay ở phía xa dưới gốc cây xà xừ, anh thấy một ông hoạ sĩ già đang ngồi vẽ những ngôi nhà con ngõ mặc cho nắng rọi xuống. Từng có thời gian theo học vẽ của thầy Mạnh Quỳnh ở nhà số 29 phố Hàng Trống, chính vì thế đến bây giờ anh vẫn tiếc vì không theo con đường hội hoạ. Uống liền hai vại bia không gọi món nhắm, lúc đứng lên thanh toán hết 3200 đồng, Tạ Đình Cân tặc lưỡi thấy vui hơn là xơi bát tái gầu hồi nãy. Hà Nội thanh bình và yên ả khi chiến tranh đã lùi xa, nhịp sống trong từng ngôi nhà chậm rãi như guồng quay của những chiếc xe đạp trên phố. Bằng con mắt được học qua hội hoạ sơ khai của mình, Tạ Đình Cân yêu từng cánh cửa cho đến ban công uốn lượn có tuổi đời cả trăm năm. Nhiều ngôi nhà nơi anh đi qua, ngày xưa người thợ cẩn thận đắp vữa cả chữ Hán, chữ Pháp hoặc năm khởi công làm nhà. Với những người đam mê cái đẹp như ông hoạ sĩ già, anh biết vẻ đẹp cổ kính và trầm mặc sẽ được thể hiện qua từng tác phẩm dù đó là tranh màu nước, tranh sơn dầu hay sơn mài. Thậm chí bằng vài nét kí hoạ nhanh trong cuốn sổ tay, một Hà Nội rất riêng vẫn được thể hiện rõ nét. Không có máu nghệ sĩ lang thang như mấy ông nhà thơ, hoạ sĩ hay nhạc sĩ, tuy nhiên sự lãng tử khiến Tạ Đình Cân thấy mình giống phụ thân cùng ông nội, những người cả đời phong lưu trong cách sống dù nhiều lúc trong túi chẳng nhiều nhặn gì. Hình như hễ không dính đến cơm, áo, gạo, tiền hay những lo toan vụ vặt, bỏ qua sự bon chen và lòng đố kị, con người ta có thần thái khác hẳn.

Dù nhà có chiếc xe đạp Vĩnh Cửu còn mới do ít đi nên được treo sát tường nhằm tiết kiệm diện tích, nhưng biết mình chẳng có công to việc lớn gì nên Tạ Đình Cân thích đi bộ ngắm phố phường hơn. Không còn chế độ mua gạo theo sổ và cầm tem phiếu xếp hàng trước mấy quầy bán thực phẩm của bên mậu dịch quốc doanh, tuy nhiên do đồng tiền mất giá khiến mọi thứ lộn tùng phèo. Nhớ lại hồi cưới vợ đầu năm 1980, lúc đó anh vét túi được mấy trăm đồng mua hai chiếc nhẫn cưới bằng vàng mười theo giấy giới thiệu, hiện nay một chỉ vàng có giá hơn bốn trăm ngàn dù cách nhau có 10 năm. Thời chiến tranh trước lúc vào chiến trường anh đã thưởng thức bát phở có năm hào, nhưng nếu sáng nay ghé hàng phở là mất tới 3000 đồng bạc chẳng ít. Nói đến việc tiêu tiền hào dạo đó, Tạ Đình Cân tự hào bởi thầy dạy vẽ của mình từng vẽ tờ hai hào trong thời kì kháng chiến. Gần trưa đi bộ về tới con phố Hàng Gà quen thuộc, Cân ngạc nhiên khi thấy người bạn thân là Tiến bột đang ngồi uống nước ngay vỉa hè. Dù bận bán hàng nhưng vợ anh vội nhắc:

-Bác Tiến đợi anh hơn một tiếng đồng hồ.

Bình luận