Đang nằm ngủ sau khi dọn hàng muộn lúc 2 giờ sáng, bất ngờ ngửi thấy mùi hôi từ bên ngoài xộc vào, Thoạt đoán ngay có người vô ý đi vệ sinh nhưng không dội nước khiến cô bực mình. Đã nhiều lần cãi nhau với mấy hộ sống trên gác, thậm chí cô từng sắm chiếc khoá rồi ban đêm khoá cửa nhà vệ sinh lại, tuy nhiên các hộ trong cùng số nhà không đồng ý nên cô đành thôi. Vẫn biết sống trong căn phòng rộng có 16 mét vuông ngay sát nhà vệ sinh là một cực hình, nhưng chẳng đâu dễ kiếm tiền như ở đây nên cô quyết chẳng rời đi nơi khác. Sống trong thời buổi gạo châu củi quế, chưa kể từ khi đổi tiền đến nay giá cả leo thang bởi đồng tiền mất giá, chính vì thế việc chỉ cần ngồi đầu ngõ bán hàng đủ nuôi sống gia đình là việc đáng tự hào. Không thể ngủ được bởi mùi hôi, cộng thêm tiếng ngáy như bò rống của gã chồng vô tích sự, Thoạt nhìn ra ngoài trời thấy đã tờ mờ sáng nên cô quyết định thức giấc. Nhằm tránh việc phải xếp hàng đi vệ sinh lúc đầu giờ sáng, cô xách xô nước dội sạch rồi vo giấy mở hàng theo cách nói của mấy người buôn bán. Khi trời bắt đầu sáng rõ, Thoạt xách bếp than tổ ong ra gốc cây ngoài ngõ nhóm lò đun nước, thoáng nhìn thấy người hàng xóm đang ngồi hút thuốc trước mặt tiền ngôi nhà, tự dưng cô nhớ lại nụ hôn đầu đời khi mình tròn đôi tám. Không lãng mạn như mấy truyện tình cảm của Vũ Hoàng Chương, nụ hôn của cô cùng Tạ Đình Cân xảy ra lúc cả khu phố vừa mất điện. Khi đó Thoạt vừa từ nhà vệ sinh bước ra còn chưa kịp rửa tay, tranh thủ lúc trời tối lại không có người gần đó, chàng thanh niên táo tợn Tạ Đình Cân đã bất ngờ ôm hôn cô say đắm ở nơi chẳng ai ngờ tới. Mối tình đầu thường để lại dấu ấn sâu sắc, bởi thế dù cả hai đã yên bề gia thất, nhiều lúc cô vẫn nghĩ về những giây phút bên nhau. Giá kể ngày đó cô kiên nhẫn đợi, chắc cuộc đời chẳng đến mức như hiện nay. Khi người yêu lên đường nhập ngũ, Thoạt đã dúi vào tay Tạ Đình Cân chiếc khăn mùi xoa có thêu bông hoa cùng dòng chữ “em sẽ đợi anh về”. Đời người con gái có thì, năm 1972 khi người yêu còn ở trong chiến trường, Thoạt đã lên xe hoa với người chồng hiện nay dù cô chẳng hề có thời gian yêu đương, tất cả việc này đều qua mai mối và sự thúc ép của bà mẹ. Vừa nhóm lò vừa liếc nhìn người yêu cũ qua đám khói than mù mịt, tự dưng Thoạt thở dài thườn thượt, bởi đúng như câu nói của đám xích lô ngồi ngay vỉa hè “con cá trượt là con cá to”.
Ngồi ăn sáng cùng mọi người, Thoạt nhắc con gái trưa nay đi học về nhớ ghé chợ mua bó hoa sen về cắm cho thơm khắp nhà. Với diện tích khiêm tốn nên cô không kê giường cho chật, buổi đêm hai vợ chồng ngủ ngay nền đá hoa vào mùa hè cho mát, nếu trời sang đông sẽ kê thêm hai miếng gỗ đắp chăn sẽ ấm sực. Riêng con gái năm nay đã thành thiếu nữ tuổi 17, Thoạt dành riêng gác xép để con có chỗ riêng tư thoải mái, dù nhà hơi chật nhưng cô sắm đủ vô tuyến, đài cát sét chẳng thiếu thứ gì. Hễ bước ra ngoài phố đi có việc hay vào mùa cưới xin, Thoạt diện bộ áo dài đeo kiềng vàng cùng đôi hoa tai nặng bốn đồng cân vàng, lúc đó cô trở lại vẻ cao sang và thanh lịch vốn có. Không muốn con gái phải khổ khi lấy chồng, những lúc có hai mẹ con với nhau, Thoạt thường khuyên nhủ, chả cần nhìn đâu xa, hễ thấy gã đàn ông nào giống bố mình thì tránh cho xa, bởi đó là loại giẻ cùi tốt mã. Dù nhà chật nhưng bằng đồng tiền kiếm được, Thoạt vẫn sắm xe máy Honda cub cho hai vợ chồng đi lại và xe mini Nhật cho con gái đi học. Thừa hưởng từ mẹ mình tài nữ công gia chánh, Thoạt không ngờ sau này nó giúp cô nhiều trong cuộc sống mưu sinh, giờ đây cô muốn dạy lại cho con gái để không bị chê là vụng khi về nhà chồng.
Rút kinh nghiệm từ bản thân, cô luôn dạy con việc chữ nghèo thường đi đôi chữ hèn, do vậy dù không tham tiền nhưng quyết không được nghèo. Dù sống cảnh chật chội là thế, nhưng con gái cô hưởng đủ mọi thứ mà bao đám bạn cùng trang lứa phải thèm, Thoạt tin mình nói rỉ rả kiểu mưa dầm thấm lâu, sau này con gái cô sẽ chọn được một tấm chồng ưng ý, ít ra không phải ngậm ngùi như cô bây giờ. Đúng như người ta hay nói, ép dầu, ép mỡ ai nỡ ép duyên, ngày đó mẹ cô không doạ cắn lưỡi tự tử, chắc gì gã đàn ông trùng tên với cụ Trạng Trình đã thành chồng cô. Ngày xưa trong thời chiến tranh bom rơi đạn nổ, những tờ giấy báo tử khiến nhiều gia đình đứng ngồi không yên, chính vì thế dù biết anh chàng Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất thân tỉnh lẻ chỉ được cái khéo mồm còn nghèo kiết xác, tuy vậy mẹ cô vẫn gật đầu ưng thuận và cho ở rể. Sau này khi gần đất xa trời bà có nắm tay cô ứa lệ nói thật, đời người con gái không gì khổ bằng cảnh chăn đơn gối chiếc, bà sợ đàn ông ra mặt trận nếu có trở về sẽ chẳng còn lành lặn, bởi thế cô chịu thiệt chút nhưng có tấm chồng như bao người khác. Sau này nhiều lúc cãi nhau, cô từng mắng chồng là loại đỉa bám chân hạc, cóc xơi thịt thiên nga cùng nhiều từ khó nghe khác. Đợi con gái dắt xe rời nhà, Thoạt đưa cho chồng túi quà cùng ba chục nghìn rồi căn dặn:
-Anh về quê ăn cỗ, tiện hỏi luôn chỗ lấy thuốc lào đem về bán, mang tiếng quê Vĩnh Bảo nhưng chỉ khoe trùng tên cụ Trạng Trình là nhanh, nói chả thấy ngượng mồm.
Thấy chồng cầm tiền vẻ ngại ngần, Thoạt nói ngay như vậy đủ mua vé tàu về Hải Phòng ăn cỗ rồi lên luôn. Nếu muốn tỏ ra người có tiền, hãy tự lấy quỹ đen lẫn quỹ đỏ giấu quanh nhà rồi tiều gì thoải mái. Cô không quên cấm chồng rượu vào rồi nói phét một tấc đến trời, bởi nhà bé như lỗ mũi nhưng tháng nào cũng phải tiếp khách ở quê ra chơi và tá túc lại. Khổ nỗi nếu họ hàng ruột thịt không sao, nhiều khi gặp người bắn súng ca nông bảy ngày không tới khiến cô phát điên vì tính sĩ diện hão của chồng. Họ lên Hà Nội khám bệnh đã đành, nhưng trước khi vào viện nhất quyết đến ăn nhờ ở đậu khiến cô phải lo cơm nước chu đáo kẻo mang tiếng. Biết chồng mình không có thói hư, tật xấu, tuy nhiên hễ uống chút rượu là bán giời không văn tự nên Thoạt chỉ biết thở dài cam chịu. Từ ngày con gái trở thành thiếu nữ, cô hạn chế cãi nhau với chồng vì muốn giữ hình ảnh đẹp về ông bố trong mắt con. Thấy chồng cầm tiền chưa muốn rời nhà nên cô đoán là chê ít, sáng ra không muốn bực mình nên Thoạt đưa thêm 5000 đồng cho chồng rồi nhắc nhẹ:
-Tiêu sướng cho bản thân thì sau này con mình khổ thôi.
Khi những người của mấy gia đình sống chung một số nhà lần lượt đi vào nhà vệ sinh giải quyết nỗi buồn, ở bên ngoài Thoạt đốt nguyên bó hương muỗi cắm xung quanh vừa át mùi hôi lại tránh được dịch sốt xuất huyết, sau đó cô đi dọc con ngõ nhỏ và tối ra ngoài đường. Thoáng nhìn cô Nụ đang tất bật rót trà cho khách, Thoạt tự dưng tiếc vì lẽ ra nếu chờ người yêu thì chỗ đó dành cho cho cô. Lúc ngồi trên xe xích lô lên chợ Đồng Xuân, cô chợt nghĩ quãng thời gian mình lấy chồng cho đến khi Tạ Đình Cân trở về năm 1976 là 4 năm, như vậy không hẳn là dài, chỉ có điều hồi đó chẳng biết sống chết thế nào. Thoáng nhìn thấy người yêu cũ đồng thời là hàng xóm cưỡi con xe Honda cub phóng qua trước mặt, Thoạt nhíu mày ngạc nhiên do thấy anh ta làm gì sao vừa đi tù về ít lâu đã tậu được xe máy. Hơi lo lắng nên cô tự hỏi, không biết Tạ Đình Cân ngựa quen đường cũ hay cụ hai Lạng giàu ngầm nên vẫn còn của chìm giờ đem ra đắp vào con trai. Tạm bỏ qua hàng trăm câu hỏi đang nhảy múa trong đầu, Thoạt ghé chợ Đồng Xuân mua sắm những thứ cần thiết sau đó ra Bến Nứa mua gà. Bán hàng ăn vốn lấy công làm lãi, do vậy cô phải mua tận gốc rồi bán tận ngọn nếu không tính ra khéo hoà vốn. Khi thúng xôi thịt đều đặn có lãi, không bằng lòng với những gì đang có, cô bắt đầu học và làm món gà tần thuốc bắc, tần ngải cứu để bán thêm, nếu đông khách sẽ mở ra hướng mới. Ngày trước thấy chồng ngày nào cũng đạp xe đi làm công nhân ở tận nhà máy giày Thượng Đình xa xôi, chính cô đã khuyên nên bỏ việc về nhà phụ vợ. Tuy nhiên vốn quen làm việc trong biên chế bao năm nên bỏ ra ngoài chẳng dễ, chỉ đến khi nhà nước xoá bỏ bao cấp, lúc đó chồng cô thấy đồng lương công nhân chẳng bõ công làm ca kíp. Kể từ ngày về nhà phụ vợ bán hàng, buổi tối pha ấm trà cùng một ấm tích nhân trần và dăm bao thuốc lá, như vậy chồng cô dù chưa giàu nhưng lúc nào cũng rủng rỉnh tiền bạc nên bớt đi mặc cảm sống cảnh “chui gầm chạn”.
Bình luận